T2, 12 / 2020 4:26 Chiều | Đức Tin Jesus

 

TÀI
LIỆU GIÁO HỘI HOÀN VŨ – TÔNG HUẤN

 

  

TÔNG HUẤN
HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC 

CHRISTUS VIVIT
CHÚA KITÔ ĐANG SỐNG 

của Đức Thánh Cha PHANXICÔ 

1. Chúa Kitô đang sống! Người là niềm hy vọng của
chúng ta, và là tuổi trẻ đẹp nhất của thế giới này. Tất cả những gì Người chạm
đến đều trở nên tươi trẻ, mới mẻ, tràn đầy sức sống. Thế nên, lời đầu tiên cha
muốn nói với mỗi Kitô hữu trẻ là: Chúa Kitô đang sống và Người muốn con cũng
được sống!

2. Người ở trong con, Người ở với con và không bao
giờ bỏ rơi con. Dù con có rời xa Người, Đấng Phục sinh vẫn ở bên con. Người kêu
gọi và chờ đợi con bắt đầu lại. Khi con cảm thấy mình già đi vì buồn sầu, thù
hận, vì lo sợ, nghi ngờ hay thất bại, Người vẫn luôn ở đó để ban lại cho con
sức mạnh và hy vọng.

3. Với tâm tình yêu thương, cha viết Tông huấn này
như một lá thư gửi cho mọi Kitô hữu trẻ, để nhắc nhở các con về một số xác tín
của đức tin, đồng thời để khích lệ các con lớn lên trong sự thánh thiện và sự
dấn thân trong ơn gọi của riêng mình. Nhưng vì đây là một cột mốc của Thượng
Hội đồng Giám mục, nên tôi cũng gửi Tông huấn này cho toàn thể dân Chúa, cho
các mục tử và cả các tín hữu, bởi lẽ tất cả chúng ta được chất vấn và thúc đẩy
suy tư về người trẻ cũng như cho người trẻ. Vì thế, ở một vài đoạn tôi sẽ nói
trực tiếp với người trẻ, và ở những đoạn khác, tôi sẽ có những đề nghị tổng
quát hơn để giúp Hội Thánh phân định.

4. Tôi đã lấy cảm hứng từ rất nhiều suy tư và thảo
luận diễn ra tại Thượng Hội đồng năm ngoái. Tôi không thể trình bày tất cả
những đóng góp đó ở đây, nhưng anh chị em có thể đọc chúng trong Văn kiện kết
thúc; tuy nhiên, khi soạn Tông huấn này, tôi cũng cố gắng đưa vào những đề nghị
mà tôi cho là ý nghĩa nhất. Như thế, những lời lẽ của tôi cũng sẽ bao gồm rất
nhiều tiếng nói của các tín hữu đã góp ý với Thượng Hội đồng Giám mục. Cả những
người trẻ dù không phải là tín hữu, nhưng muốn chia sẻ suy nghĩ của họ tại
Thượng Hội đồng, cũng đã nêu lên những vấn đề gợi lên cho tôi nhiều chất vấn
mới.

 

CHƯƠNG MỘT

LỜI CHÚA NÓI GÌ VỀ NGƯỜI
TRẺ?

5. Chúng ta hãy dựa vào kho tàng Sách Thánh, ở đó có
nhiều đoạn nói về người trẻ và về cách thức Chúa đến gặp gỡ người trẻ.

Trong Cựu Ước

6. Trong một thời đại mà người trẻ ít được coi trọng,
một số bản văn cho thấy Chúa có một cái nhìn khác về họ. Chẳng hạn, chúng ta
thấy Giuse là người nhỏ tuổi nhất trong nhà (x. St 37,2-3), nhưng Thiên Chúa lại cho cậu thấy những điều lớn lao
trong giấc mơ và khi chỉ mới khoảng hai mươi tuổi, cậu đã vượt xa tất cả các
anh mình trong những việc quan trọng (x. St
37- 47).

7. Nơi Ghiđêon, chúng ta thấy sự thẳng thắn của người
trẻ, họ không có thói quen xoa dịu thực tế. Khi thiên sứ bảo cậu rằng Chúa ở
với cậu, cậu đáp lại: “Nếu Chúa ở với chúng tôi, thì sao tất cả những điều này
lại xảy ra với chúng tôi?” (Tl 6,13).
Thiên Chúa không cảm thấy bị xúc phạm vì lời trách móc đó, nhưng vẫn ra lệnh
cho cậu: “Hãy mạnh dạn lên đường để cứu thoát Israel!” (Tl 6,14).

8. Khi Samuen còn là một cậu bé kém tự tin, thì Chúa
đã nói chuyện với cậu. Theo lời khuyên của một người lớn, cậu đã mở lòng ra để
nghe tiếng Chúa gọi: “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe” (1 Sm 3,9-10). Thế nên cậu trở thành một
tiên tri lớn, từng can thiệp vào những thời khắc quan trọng của đất nước mình.
Vua Saun cũng thế, vua còn trẻ khi được Chúa kêu gọi thực hiện sứ mạng (x. 1 Sm 9,2).

9. Vua Đavít được chọn khi còn là một cậu bé. Khi
tiên tri Samuen tìm kiếm vị vua tương lai cho Israel, có người đề cử với ông
những người con lớn tuổi và từng trải hơn. Nhưng vị tiên tri lại nói rằng người
được chọn là Đavít, người đang chăn chiên (x. 1 Sm 16,6-13), vì “con người chỉ nhìn bề ngoài, còn Chúa nhìn thấu
lòng người” (c. 7). Vinh quang tuổi trẻ hệ tại nơi tâm hồn, hơn là nơi sức mạnh
thể lý hay ấn tượng đối với người khác.

10. Salômôn, khi phải kế vị cha mình, cảm thấy
hoang mang nên đã thưa với Chúa: “Con mới chỉ là một đứa trẻ, con chẳng biết
lãnh đạo thế nào” (1 V 3,7). Tuy
nhiên, tính bạo dạn của tuổi trẻ đã khiến anh cầu xin Chúa ban ơn khôn ngoan và
anh đã tận hiến cho sứ mạng. Điều tương tự như thế cũng diễn ra với tiên tri
Giêrêmia, được kêu gọi khi còn rất trẻ, để thức tỉnh dân mình. Anh sợ hãi kêu
lên: “Ôi lạy Chúa, con chẳng biết ăn nói, vì con chỉ là một đứa trẻ!” (Gr 1,6). Nhưng Chúa bảo anh đừng nói thế
(x. Gr 1,7), rồi Ngài thêm: “Đừng sợ
khi đứng trước mặt họ, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi” (Gr 1,8). Sự tận tụy của tiên tri
Giêrêmia trong sứ mạng cho thấy điều gì phải xảy ra khi sự tươi trẻ của tuổi
thanh niên gắn kết với quyền năng của Thiên Chúa.

11. Một cô gái trẻ người Do Thái, người hầu
của Naaman, viên chỉ huy quân đội ngoại bang, với lòng tin đã can thiệp giúp
ông lành bệnh (x. 2 V 5,2-6). Cô gái
trẻ Rút là mẫu gương của lòng quảng đại khi cô ở lại với mẹ chồng đang trong
hoàn cảnh bất hạnh (x. R 1,1-18) và
cô cũng biểu lộ lòng dũng cảm khi tiếp tục bước đi trong đời (x. R 4,1-17).

Trong Tân Ước

12. Trong một dụ ngôn (x. Lc 15,11-32), Chúa Giêsu kể câu chuyện người con thứ muốn bỏ nhà
cha mình để đi đến một vùng đất xa xôi (x. cc. 12-13). Nhưng giấc mơ tự lập của
cậu đã biến thành cuộc sống phóng đãng trụy lạc, và cậu đã phải nếm trải nỗi
cay đắng của cô đơn và nghèo đói (x. cc. 14-16). Nhưng rồi cậu đã biết hồi tâm
để bắt đầu lại (x. cc. 17-19) và cậu quyết tâm đứng dậy trở về (x. c. 20). Đó
là đặc điểm của con tim trẻ trung, sẵn sàng thay đổi, có khả năng đứng dậy và
học hỏi từ cuộc sống. Làm sao lại không nâng đỡ người con ấy trong quyết tâm
mới đó? Nhưng, người anh cả lại có một trái tim già cỗi, để cho lòng tham, thói
ích kỷ và tính đố kỵ chiếm hữu (Lc
15,28-30). Chúa Giêsu khen cậu em là tội nhân đã trở lại đường ngay chứ không
khen người anh cứ tưởng mình trung tín, mà lại không sống tinh thần yêu thương
và thương xót.

13. Chúa Giêsu, Đấng trẻ trung muôn đời, muốn ban cho
chúng ta một con tim trẻ mãi. Lời Chúa đòi chúng ta “loại bỏ men cũ để trở
thành bột mới” (1 Cr 5,7), đồng thời
mời gọi chúng ta cởi bỏ “con người cũ” và mặc lấy “con người mới” (Cl 3,9.10). [1] Giải thích về ý nghĩa
của việc mặc lấy sự trẻ trung vốn là sự đổi mới này, (x. c. 10), Lời Chúa khẳng
định đó là mặc lấy “những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn
nại; chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13). Như thế trẻ trung đích thực có nghĩa là có một trái
tim có khả năng yêu thương. Trái lại, tất cả những gì ngăn cách chúng ta với
người khác sẽ làm cho tâm hồn trở nên già cỗi. Và Lời Chúa kết luận: “Trên hết
mọi sự, hãy có tình yêu thương, đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14).

14. Chúng ta cũng hãy nhớ: Đức Giêsu không hề thích
người lớn coi thường hoặc áp đặt người trẻ. Ngược lại, Người đòi hỏi: “Người
lớn nhất phải trở nên như người nhỏ nhất, và người đứng đầu phải trở nên như
người phục vụ” (Lc 22,26). Đối với
Người, tuổi tác không tạo ra đặc quyền, và ít tuổi hơn không có nghĩa là kém
giá trị hay kém phẩm giá hơn.

15. Lời Chúa nói rằng người trẻ phải được đối xử “như
những người anh em” (1 Tm 5,1), và
khuyên các bậc cha mẹ đừng “phẫn nộ với con cái, kẻo chúng trở nên nhát đảm” (Cl 3,21). Người trẻ không được nản chí;
nhưng phải mơ ước những điều lớn lao, tìm kiếm những chân trời rộng lớn, khát
vọng cao hơn, muốn chinh phục thế giới, có khả năng chấp nhận những thách đố và
cống hiến hết mình để xây dựng điều tốt đẹp hơn. Đó là lý do tại sao tôi nhấn
mạnh với các bạn trẻ rằng đừng để mình bị cướp mất hy vọng; và tôi nhắc lại với
mỗi bạn trẻ: “Đừng để ai coi thường tuổi trẻ của các con” (1 Tm 4,12).

16. Tuy nhiên, người trẻ cũng được khuyên nhủ “hãy
vâng phục những người lớn tuổi” (1 Pr
5,5). Kinh Thánh luôn mời gọi kính trọng người già, vì người già có cả một kho
tàng kinh nghiệm; họ đã nếm trải những thành công và thất bại, những niềm vui
và sầu khổ của cuộc đời, những hy vọng và thất vọng; và trong cõi lặng của tâm
hồn, họ lưu giữ nhiều câu chuyện có thể dạy chúng ta đừng phạm sai lầm hay để
cho những ảo tưởng lôi cuốn. Đây là lời của một bậc cao niên khôn ngoan kêu gọi
tôn trọng một số giới hạn và biết làm chủ mình đúng lúc: “Hãy khuyên các thanh
niên giữ chừng mực trong mọi sự” (Tt
2,6). Thái độ sùng bái tuổi trẻ hoặc khinh rẻ người lớn tuổi hay người thuộc
thế hệ khác đều không phải lẽ. Chúa Giêsu nói rằng người khôn ngoan có khả năng
rút ra từ kho tàng của họ cả những điều mới lẫn điều cũ (x. Mt 13,52). Một người trẻ khôn ngoan mở
ra với tương lai, nhưng luôn có thể rút tỉa được điều gì đó từ kinh nghiệm của
người khác.

17. Trong Phúc âm Máccô, có một người, khi nghe Chúa
Giêsu nói về các điều răn, đã thưa rằng: “Tất cả những điều này tôi đã tuân giữ
từ lúc còn trẻ” (10,20). Thánh vịnh gia cũng nói điều tương tự: “Lạy Chúa, Chúa
là niềm hy vọng của con, […] là niềm tin tưởng của con từ khi con còn trẻ
[…]. Chúa đã dạy dỗ con từ khi con còn trẻ và giờ đây con loan báo những kỳ
công của Chúa” (71,5.17). Chúng ta đừng bao giờ hối tiếc về việc đã dành tuổi
trẻ của mình làm người tốt, khi mở lòng ra cho Chúa và sống một cách khác. Tất
cả những điều ấy không hề lấy mất tuổi trẻ của chúng ta, nhưng lại làm cho tuổi
trẻ mạnh mẽ và được đổi mới: “Tuổi trẻ của ngươi được đổi mới tựa chim bằng” (Tv 103,5). Vì thế, Thánh Augustinô đã
than thở: “Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính vừa
luôn mới mẻ! Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Con đã yêu Chúa quá muộn màng!” [2]
Nhưng chàng thanh niên giàu có kia, tuy đã trung thành với Chúa khi còn trẻ,
lại để cho thời gian cướp đi những giấc mơ vì anh yêu thích của cải của mình
hơn (x. Mc 10, 22).

18. Ngược lại, trong Phúc âm Mátthêu, có một chàng
thanh niên (x. Mt 19,20.22) đến bên
Chúa Giêsu để hỏi thêm Ngài (x. c. 20), với tinh thần cởi mở của người trẻ
thích đi tìm những chân trời mới và những thách đố lớn. Thực ra, tinh thần của
anh lại không trẻ trung, vì anh gắn bó với của cải và tiện nghi. Miệng thì nói
anh muốn một điều gì đó hơn nữa, nhưng khi Chúa Giêsu bảo anh rộng tay phân
phát của cải của mình, anh mới nhận ra rằng anh không thể từ bỏ những gì mình
đang có. Cuối cùng, “nghe những lời này, chàng thanh niên buồn bã bỏ đi, vì anh
có nhiều của cải” (c. 22). Anh đã từ bỏ tuổi trẻ của mình.

19. Phúc âm cũng kể cho chúng ta về mấy cô gái khôn
ngoan, tỉnh thức và chờ đợi, còn những cô khác lại lơ đãng và thiếp ngủ (x. Mt 25,1-13). Thật vậy, tuổi trẻ của
chúng ta có thể trôi qua trong lơ đãng, hời hợt, mê ngủ, không có khả năng vun
đắp các mối tương quan sâu xa và đi vào trọng tâm của đời sống. Như thế chúng
ta chuẩn bị cho mình một tương lai nghèo nàn, không có thực chất. Hoặc chúng ta
có thể dùng tuổi trẻ của mình để vun đắp những điều đẹp đẽ và lớn lao, đó là
chuẩn bị một tương lai đầy sức sống và phong phú nội tâm.

20. Nếu con đánh mất sức sống nội tâm, những giấc mơ,
lòng nhiệt thành, niềm hy vọng và lòng quảng đại, Chúa Giêsu sẽ đứng trước mặt
con như ngày xưa Người đã làm thế với đứa con trai đã chết của một bà goá, và
với tất cả quyền năng của Đấng Phục Sinh, Người sẽ thúc giục con: “Này con, Ta
bảo con: hãy trỗi dậy!” (Lc 7,14).

21. Chắc chắn nhiều đoạn khác của Lời Chúa có thể soi
sáng cho chúng ta trong giai đoạn này của đời sống. Chúng ta sẽ nói đến một số
đoạn ấy trong các chương sau.

 

CHƯƠNG HAI

ĐỨC GIÊSU KITÔ LUÔN TRẺ
TRUNG

22. Đức Giêsu là “người trẻ giữa những người trẻ để
nên mẫu gương cho người trẻ và thánh hiến họ cho Chúa”. [3] Chính vì thế Thượng
Hội đồng nói rằng “tuổi trẻ là một thời kỳ độc đáo và đầy hứng khởi
trong cuộc đời, chính Đức Giêsu đã trải qua và thánh hoá thời kỳ này”. [4]
Phúc âm nói gì với chúng ta về tuổi trẻ của Đức Giêsu?

Tuổi trẻ của Đức Giêsu

23. Chúa “trút linh hồn” (Mt 27,50) trên thập giá lúc Người chỉ mới ngoài ba mươi (x. Lc 3,23). Cần nhớ rằng Đức Giêsu là một
người trẻ. Người đã hiến mạng sống khi đang ở độ tuổi mà ngày nay được coi là
tuổi thanh niên. Người bắt đầu sứ mạng công khai khi đang tràn đầy sức sống của
tuổi thanh xuân, và như thế, “một ánh sáng rực rỡ” (Mt 4,16) đã xuất hiện, nhất là khi Người hiến mạng sống mình cho
đến cùng. Kết cục ấy không phải là ngẫu nhiên, nhưng toàn bộ tuổi trẻ của Người
là một sự chuẩn bị quý giá, trong từng khoảnh khắc, vì “mọi sự trong đời sống
của Đức Giêsu là một dấu chỉ mầu nhiệm của Người” [5] và “cả cuộc đời của Đức
Kitô là mầu nhiệm cứu chuộc”. [6]

24. Phúc âm không nói đến thời thơ ấu của Đức Giêsu,
nhưng kể cho chúng ta một vài biến cố thuở niên thiếu và thời thanh niên của
Người. Mátthêu đặt giai đoạn tuổi trẻ của Người vào giữa hai sự kiện: việc gia
đình của Đức Giêsu trở về Nadarét sau thời gian lánh nạn, và việc Người chịu
phép rửa ở sông Giođan để bắt đầu sứ vụ công khai. Những hình ảnh cuối cùng về
trẻ Giêsu là những hình ảnh của một em nhỏ tị nạn ở Ai Cập (x. Mt 2,14-15) rồi hồi hương về Nadarét (x.
Mt 2,19-23). Những hình ảnh đầu tiên
của Đức Giêsu như một người trưởng thành là những hình ảnh cho thấy Người ở
trong đám đông trên bờ sông Giođan, để được người anh họ là Gioan Tẩy Giả làm
phép rửa cho, cũng như mọi người khác trong dân (x. Mt 3,13-17).

25. Phép rửa ấy không giống như phép rửa của chúng
ta, dẫn chúng ta vào đời sống ân sủng, nhưng là một sự thánh hiến trước khi
Người bắt đầu sứ mạng trọng đại của cuộc đời Người. Phúc âm nói rằng phép rửa
của Đức Giêsu làm cho Chúa Cha rất hân hoan và hài lòng: “Con là Con yêu dấu
của Ta” (Lc 3,22). Rồi Đức Giêsu được
tràn đầy Thánh Thần và được Thánh Thần dẫn vào hoang địa, chuẩn bị ra đi rao
giảng và làm các dấu lạ, giải thoát và chữa lành (x. Lc 4,1-14). Như thế mọi người trẻ, khi cảm nhận mình được kêu gọi
nhận lãnh một sứ mạng trong thế giới này, cũng được mời gọi nhận ra những lời
ấy của Chúa Cha trong tâm hồn mình: “Con là con yêu dấu của Ta”.

26. Giữa hai trình thuật này, có một trình thuật khác
nói về Đức Giêsu ở tuổi thiếu niên. Đó là lúc Người cùng với cha mẹ mình trở về
Nadarét, sau biến cố hai ông bà lạc mất Người rồi lại tìm thấy Người trong Đền
thờ (x. Lc 2,41-51). Trình thuật cho
biết “Người vâng lời cha mẹ” (x. Lc
2,51), vì Người không chối bỏ gia đình mình. Rồi Thánh Luca thêm rằng Đức Giêsu
“lớn lên, thêm khôn ngoan và đầy ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta” (x. Lc 2,52). Nghĩa là Đức Giêsu đang ở
trong thời gian chuẩn bị, và trong giai đoạn này Người đi sâu vào mối tương
quan với Chúa Cha và với tha nhân. Thánh Gioan Phaolô II giải thích rằng Đức
Giêsu không chỉ lớn lên về mặt thể lý, mà còn “về tâm linh nữa”, vì “sự viên
mãn của ân sủng nơi Đức Giêsu tương ứng với tuổi tác: luôn có sự viên mãn,
nhưng sự viên mãn ấy gia tăng theo độ tuổi của Người”. [7]

27. Theo những điều Phúc âm cho biết, chúng ta có thể
nói rằng trong những năm tuổi trẻ, Đức Giêsu đã “tự rèn luyện”, chuẩn bị sẵn
sàng để thực hiện kế hoạch của Chúa Cha. Người đã hướng tuổi niên thiếu và tuổi
trẻ của mình theo sứ mạng cao cả ấy.

28. Khi Đức Giêsu còn ở tuổi niên thiếu và tuổi trẻ,
mối tương quan của Người với Chúa Cha là tương quan của người Con yêu dấu. Vì
gắn bó với Chúa Cha nên Người lớn lên với niềm thao thức về các công việc của
Chúa Cha: “Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con sao?” (Lc 2,49). Nhưng đừng nghĩ rằng Giêsu là
một thiếu niên sống cô độc hay một thanh niên khép kín. Mối tương quan của Đức
Giêsu với mọi người là mối tương quan của một người trẻ chia sẻ cả cuộc sống
của một gia đình hoà nhập với dân tộc. Người học việc với cha, rồi sau đó thay
cha làm thợ mộc. Vì thế trong Phúc âm có lần Người được gọi là “con bác thợ
mộc” (Mt 13,55), và lần khác, đơn
giản là “chàng thợ mộc” (Mc 6,3). Chi
tiết ấy cho thấy Người là một thanh niên bình thường trong dân chúng, có những
mối tương quan bình thường. Chẳng ai xem Người như một anh chàng xa lạ hay tách
biệt với những người khác. Chính vì thế, khi Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy, người
ta mới không hiểu bởi đâu mà Người có được sự khôn ngoan ấy: “Đây không phải là
con ông Giuse sao?” (Lc 4,22).

29. Thật vậy, “Chúa Giêsu đã không lớn lên trong mối
tương quan khép kín và đơn độc chỉ với Mẹ Maria và Thánh Giuse, nhưng Người
sống vui vẻ trong gia đình lớn, nơi có bà con và bạn hữu” [8]. Thế nên chúng ta
có thể hiểu tại sao khi trên đường hành hương Giêrusalem về, cha mẹ Người vẫn
yên trí rằng cậu bé mười hai tuổi (x. Lc
2,42) đang la cà với những người khác, mặc dù suốt cả ngày hai ngài chẳng nhìn
thấy cậu: “Nghĩ là con mình có trong đoàn lữ hành, nên ông bà đã đi một ngày
đàng” (Lc 2,44). Chắc hẳn – các ngài
nghĩ vậy – cậu Giêsu vẫn đang ở giữa đoàn người, chạy qua chạy lại, vui đùa với
những cậu bé đồng trang lứa, nghe những người lớn kể chuyện và chia sẻ buồn vui
với những người cùng đi. Ở đây, từ Hy lạp “synodía”
mà Luca dùng để chỉ đoàn người hành hương chính là nói về cộng đoàn đang lữ
hành, trong đó có Thánh Gia. Vì được cha mẹ tin tưởng nên cậu Giêsu có thể tự
do đi lại và học cách cùng bước đi với người khác.

Tuổi trẻ của Đức Giêsu soi
sáng cho chúng ta

30. Những khía cạnh này trong đời sống của Đức Giêsu
có thể truyền cảm hứng cho tất cả các bạn trẻ đang lớn lên và chuẩn bị thi hành
sứ mạng của mình. Điều này đòi hỏi người trẻ phải lớn lên trong mối tương quan
với Chúa Cha, trong ý thức thuộc về một gia đình và một cộng đồng, trong việc
mở lòng ra để được tràn đầy Thánh Thần và được hướng dẫn thi hành sứ mạng mà
Thiên Chúa ủy thác, là ơn gọi riêng của mình. Trong mục vụ giới trẻ, không được
bỏ qua điểm nào trên đây, kẻo lại lập ra những dự án tách rời người trẻ khỏi
gia đình và thế giới, hoặc biến họ thành một thiểu số ưu tuyển, được bảo vệ
khỏi mọi ô nhiễm. Nhưng chúng ta cần những dự án giúp cho người trẻ được vững
vàng, đồng hành với họ, thúc đẩy họ gặp gỡ những người khác, quảng đại phục vụ
và đảm nhận sứ mạng.

31. Các bạn trẻ thân mến, Đức Giêsu không dạy các con
từ xa hay từ bên ngoài, nhưng Người chia sẻ với các con ngay trong chính tuổi
trẻ của các con. Điều quan trọng là các con hãy chiêm ngắm người thanh niên
Giêsu mà các sách Phúc âm trình bày cho chúng ta, vì Người thực sự là một người
trong các con, và nơi Người chúng ta nhận ra nhiều đặc điểm của những con tim
trẻ trung. Chẳng hạn, chúng ta thấy điều này trong những đặc điểm sau đây:
“Đức Giêsu đã tin tưởng Chúa Cha cách tuyệt đối, Người đã nâng niu tình
bạn giữa Người và các môn đệ và ngay cả khi có biến động, Người vẫn trung
thành với tình bạn ấy. Người đã biểu lộ một lòng trắc ẩn sâu xa đối
với những người yếu kém nhất, đặc biệt là người nghèo, người bệnh tật, người
tội lỗi và người bị loại trừ. Người đã dũng cảm đương đầu với giới cầm
quyền trong tôn giáo và chính trị thời bấy giờ; Người đã trải qua kinh
nghiệm bị hiểu lầm và bị chối bỏ; Người đã cảm thấy sợ hãi trước đau khổ
và đã biết đến sự mong manh của Khổ nạn; Người đã hướng mắt nhìn về tương
lai, phó thác trong vòng tay vững chãi của Chúa Cha và sức mạnh của Chúa
Thánh Thần. Trong Chúa Giêsu, mọi người trẻ có thể tìm thấy chính mình.” [9]

32. Đàng khác, Đức Giêsu đã sống lại và Người muốn
chúng ta thông dự vào nét mới mẻ của cuộc phục sinh ấy. Người là nét trẻ trung
đích thực của một thế giới già cỗi, cũng là nét trẻ trung của một vũ trụ “sắp
sinh nở” (Rm 8,22) đang chờ được mặc
lại ánh sáng và sự sống của Người. Ở bên Người, chúng ta được uống từ nguồn
mạch đích thực có sức làm cho những giấc mơ, những kế hoạch và lý tưởng cao cả
của chúng ta luôn sống động, đồng thời thúc đẩy chúng ta loan báo một cuộc sống
thật đáng sống. Trong hai chi tiết thú vị của Phúc âm Máccô, chúng ta lưu ý đến
lời mời gọi sống tuổi trẻ đích thực của những người được sống lại. Một đàng,
trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta thấy có một thanh niên nhút nhát muốn đi
theo Đức Giêsu, nhưng lại sợ hãi bỏ cả áo xống chạy trốn (x. Mc 14,51-52); anh không có can đảm liều
mất mọi sự để theo Chúa. Đàng khác, nơi ngôi mộ trống, chúng ta thấy một thanh
niên khác, “mặc áo trắng dài” (Mc
16,5), bảo các phụ nữ đừng sợ và loan báo cho họ tin vui phục sinh (x. Mc 16,6-7).

33. Chúa kêu gọi chúng ta thắp lên những ánh sao
trong đêm tối của các bạn trẻ khác, Ngài mời chúng ta nhìn lên những vì sao
đích thực, đó là những dấu chỉ đủ loại mà Ngài ban tặng để chúng ta không chỉ
đứng nhìn, nhưng bắt chước người gieo hạt: họ ngắm nhìn các vì sao trên trời để
biết cách trồng trọt. Thiên Chúa thắp sáng các vì sao để chúng ta luôn bước đi:
“Các vì sao hân hoan chiếu sáng, ở chỗ của chúng; Ngài gọi chúng và chúng đáp
lại: Chúng tôi đây!” (Br 3,34-35).
Chính Đức Kitô là ánh sáng hy vọng rạng rỡ cho chúng ta và soi đường chúng ta
trong đêm tối, vì Người là “sao mai chiếu rạng” (Kh 22,16).

Nét trẻ trung của Hội Thánh

34. Tuổi trẻ là một giai đoạn trong cuộc đời; nhưng
trước hết tuổi trẻ là một tình trạng của tâm hồn. Vì thế một tổ chức kỳ cựu như
Hội Thánh có thể đổi mới và trẻ hoá ở những giai đoạn khác nhau trong lịch sử
rất lâu dài của mình. Thật vậy, vào những thời khắc bi thảm nhất trong lịch sử
của mình, Hội Thánh cảm nhận được lời mời gọi thực tâm trở về với tình yêu ban
đầu. Khi nhớ lại sự thật này, Công đồng Vaticanô II khẳng định rằng “với một
lịch sử lâu dài và luôn sống động, đang khi hướng tới sự hoàn thiện con người
trong thời gian và hướng tới những định mệnh cuối cùng của lịch sử và của đời
sống, Hội Thánh thực sự là tuổi trẻ của thế giới”. Nơi Hội Thánh, người ta luôn
luôn có thể gặp được Đức Kitô, “là người đồng hành và người bạn của giới trẻ”.
[10]

Một Hội Thánh sẵn sàng canh
tân

35. Chúng ta hãy xin Chúa giải thoát Hội Thánh khỏi
những kẻ muốn làm cho Hội Thánh già đi, giam hãm Hội Thánh trong quá khứ, kềm
hãm hay làm cho Hội Thánh bị tê liệt. Chúng ta cũng hãy xin Chúa giải thoát Hội
Thánh khỏi một cám dỗ khác: tin rằng mình trẻ trung vì đã chấp nhận tất cả
những gì thế giới mời mọc, tin rằng mình đổi mới vì đã quên đi sứ điệp của mình
mà bắt chước người khác. Không! Hội Thánh trẻ trung khi Hội Thánh là chính
mình, khi Hội Thánh đón nhận sức mạnh luôn mới mẻ của Lời Chúa, của Thánh Thể,
của sự hiện diện của Đức Kitô và sức mạnh Thánh Thần của Người mỗi ngày. Hội
Thánh trẻ trung khi Hội Thánh có khả năng không ngừng trở về nguồn.

36. Là thành viên của Hội Thánh, chắc chắn chúng ta
không được sống tách biệt với người khác. Họ phải cảm nhận được chúng ta là anh
em, là người thân cận của họ, như các Tông đồ “được toàn dân mến phục” (Cv 2,47; x. 4,21; 5,13). Nhưng đồng thời
chúng ta cũng phải dám khác biệt, có những ước mơ khác mà thế gian không có,
dám làm chứng cho vẻ đẹp của sự quảng đại, tinh thần phục vụ, sự trong sạch,
dũng cảm, tha thứ, trung thành với ơn gọi riêng của mình, của cầu nguyện, tranh đấu cho công lý và
công ích, yêu thương người nghèo và tình thân hữu với mọi người.

37. Hội Thánh của Đức Kitô luôn có nguy cơ sa chước
cám dỗ đánh mất lòng nhiệt thành, bởi không còn nghe tiếng Chúa mời gọi liều
mình vì đức tin để cho đi tất cả không đắn đo trước những hiểm nguy, mà quay về
tìm kiếm những an toàn giả tạo của thế gian. Chính những người trẻ có thể giúp
Hội Thánh giữ được tinh thần trẻ trung, không rơi vào băng hoại; không dừng
lại, không kiêu hãnh, không biến thành giáo phái, nhưng trở nên nghèo khó và có
khả năng làm chứng hơn nữa, gần gũi với những người hèn kém và những người bị
bỏ rơi, biết đấu tranh cho công lý và khiêm tốn đón nhận những chất vấn. Người
trẻ có thể đem đến cho Hội Thánh vẻ đẹp của sự trẻ trung khi họ khơi gợi khả
năng “vui mừng về những khởi đầu, luôn cho đi chính mình, canh tân và lại lên
đường để đạt những thành quả mới”. [11]

38. Ai trong chúng ta không còn trẻ nữa thì cần có
những cơ hội gần gũi với tiếng nói và lòng nhiệt thành của người trẻ, chính “sự
gần gũi ấy tạo điều kiện để Giáo hội trở thành nơi đối thoại và nơi làm chứng
về tình huynh đệ”. [12] Chúng ta cần tạo thêm nhiều không gian hơn cho người
trẻ lên tiếng: “Khi có lòng thấu cảm, lắng nghe có thể dẫn đến trao đổi
ơn ban cho nhau… Đồng thời, lắng nghe tạo điều kiện để việc loan báo Tin Mừng
có thể thực sự chạm đến con tim cách thiết thực và phong phú”. [13]

Một Hội Thánh quan tâm đến
các dấu chỉ của thời đại

39. “Đối với rất nhiều người trẻ, những từ “Thiên
Chúa”, ‘tôn giáo’ và ‘Giáo hội’ dường như không có ý nghĩa gì, nhưng họ
lại bị đánh động bởi nhân vật Giêsu, khi họ được nghe giới thiệu cách
hấp dẫn và thiết thực về Người”. [14] Vì thế, điều cần thiết là Hội Thánh
đừng quá bận tâm về mình, nhưng trước hết phải phản ánh Đức Giêsu Kitô. Điều
này đòi hỏi Hội Thánh khiêm tốn nhìn nhận rằng có một số điểm cụ thể phải được
thay đổi, và để làm điều đó thì Hội Thánh phải trân trọng quan điểm và cả những
phê bình của người trẻ.

40. Tại Thượng Hội đồng, mọi người nhìn nhận rằng
“một số lớn giới trẻ, với nhiều lý do khác nhau, không đòi hỏi gì ở Hội
Thánh vì họ cho rằng Hội Thánh chẳng có liên can gì đến cuộc đời họ. Một
số còn minh nhiên yêu cầu Hội Thánh để họ yên thân, vì họ cảm thấy khó
chịu, nếu không muốn nói là bực bội, khi Hội Thánh hiện diện. Thường
thì yêu cầu này không xuất phát từ một thái độ khinh miệt thiếu suy xét
và bốc đồng, nhưng bắt nguồn từ những lý do nghiêm trọng và đáng trân
trọng: các vụ bê bối tình dục và kinh tế; sự thiếu chuẩn bị nơi những thừa
tác viên có chức thánh khiến những người này không nắm bắt được cách cảm
nhận của giới trẻ một cách thích đáng; sự thiếu chuẩn bị cho bài giảng lễ
và cho việc trình bày lời Chúa; vai trò thụ động dành cho giới trẻ trong
cộng đồng Kitô hữu; các khó khăn mà Hội Thánh thường gặp khi phải giải
thích cách hợp lý cho xã hội đương thời về các lập trường tín lý và đạo
đức của mình”. [15]

41. Mặc dù có nhiều người trẻ hài lòng khi
thấy một Hội Thánh khiêm tốn tin tưởng vào những ân huệ của mình, và có khả
năng phê phán cách đúng đắn và huynh đệ, nhưng một số khác lại đòi hỏi Hội
Thánh biết lắng nghe nhiều hơn, chứ không phải lúc nào cũng lên án thế gian. Họ
không muốn thấy một Hội Thánh im lặng và e ngại lên tiếng, cũng không muốn thấy
một Hội Thánh chỉ biết loay hoay tranh đấu cho vài ba vấn đề ám ảnh mình. Để
được người trẻ tín nhiệm, đôi khi Hội Thánh cần tìm lại sự khiêm tốn và đơn sơ
lắng nghe, biết nhận ra một ánh sáng nơi những gì người khác nói giúp Hội Thánh
hiểu Tin Mừng tốt hơn. Một Hội Thánh luôn phòng thủ, thiếu khiêm tốn, không
biết lắng nghe, không chấp nhận bị chất vấn, sẽ đánh mất đi sự tươi trẻ và biến
mình thành một viện bảo tàng. Khi đó, làm sao Hội Thánh có thể đáp lại những
ước mơ của người trẻ? Tuy Hội Thánh nắm giữ chân lý Phúc âm, nhưng không có
nghĩa là Hội Thánh đã hoàn toàn hiểu rõ Tin Mừng; đúng hơn, Hội Thánh phải luôn
lớn lên trong sự hiểu biết về kho tàng bất tận này [16].

42. Chẳng hạn, một Hội Thánh quá sợ hãi và gắn chặt
với cơ cấu thì có thể luôn chỉ trích các chủ trương bảo vệ nữ quyền cũng như
hay vạch ra những nguy cơ và sai lầm có thể có trong những đòi hỏi ấy. Trái
lại, một Hội Thánh sống động thì lại có thể phản ứng bằng cách lưu tâm đến các
đòi hỏi chính đáng của phụ nữ muốn có công bằng và bình đẳng nhiều hơn. Hội
Thánh ấy có thể nhớ lại lịch sử và thừa nhận rằng nam giới có những mưu toan
chuyên quyền, đàn áp, cũng như nhiều hình thức nô lệ, lạm dụng và bạo lực tình
dục khác. Nhờ cái nhìn ấy, Hội Thánh mới có thể tham gia vào những đòi hỏi
quyền lợi của phụ nữ, và tin tưởng đóng góp phần mình để phái nam và phái nữ hỗ
trợ nhau nhiều hơn, mặc dù không hẳn đã tán thành tất cả những gì mà một số
nhóm nữ quyền đề nghị. Theo hướng đi này, Thượng Hội đồng muốn canh tân cam kết
của mình “chống lại mọi hình thức kỳ thị và bạo lực liên quan đến khuynh
hướng giới tính”. [17] Đây là đáp ứng của một Hội Thánh biểu lộ nét trẻ trung
và để cho sự nhạy cảm của người trẻ chất vấn và thôi thúc mình. 

Mẹ Maria, thiếu nữ ở Nadarét

43. Đức Maria ngời sáng ở trung tâm của Hội Thánh.
Ngài là kiểu mẫu tuyệt hảo cho một Hội Thánh trẻ trung muốn quảng đại và ngoan
hiền bước theo Đức Kitô. Khi còn rất trẻ, được sứ thần báo tin, Đức Maria đã
không ngại nêu ra những thắc mắc (x. Lc
1,34). Nhưng với tâm hồn luôn sẵn sàng, Mẹ đã thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa”
(Lc 1,38).

44. “Sức mạnh của lời thưa ‘xin vâng’ nơi cô gái trẻ
Maria luôn khiến chúng ta xúc động. Đó là sức mạnh của lời đáp “xin hãy làm cho
tôi như thế!” mà Mẹ đã thưa cùng sứ thần. Điều này khác với sự chấp nhận thụ
động hay miễn cưỡng. Điều này khác với tiếng “xin vâng” hàm ý: để xem điều gì
sẽ xảy ra. Đức Maria không có ý nói: cứ chờ xem. Mẹ dứt khoát, Mẹ hiểu điều
đang nói và đã thưa ‘xin vâng’, không hề do dự. Tiếng đáp ấy là một cái gì
khác, còn hơn thế nữa. Đó là lời ‘xin vâng’ của một người muốn dấn thân và chấp
nhận rủi ro, đánh cuộc mọi thứ, mà không có bảo đảm an ninh nào khác hơn ngoài
niềm xác tín rằng Mẹ là người đang mang một lời hứa. Cha xin hỏi từng người
trong các con: các con có cảm nhận được mình là những người đang mang một lời
hứa không? Tôi đang mang trong lòng, đang theo đuổi lời hứa nào? Chắc chắn sứ
mạng của Mẹ sẽ là sứ mạng khó khăn, nhưng những khó khăn ấy không phải là lý do
gì để nói ‘không’. Chắc chắn Mẹ sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng những khó khăn ấy
không phải là thứ khó khăn bởi sự hèn nhát làm người ta tê liệt vì mọi sự không
rõ ràng hoặc không được bảo đảm trước. Đức Maria đã không mua bảo hiểm nhân
thọ! Mẹ đã mạo hiểm và vì thế Mẹ trở nên mạnh mẽ, trở nên một influencer (người có uy thế). Mẹ là một influencer của Thiên Chúa. Tiếng “xin
vâng” và mong muốn phục vụ thì mạnh mẽ hơn những nghi nan và khó khăn”. [18]

45. Không lẩn tránh cũng không ảo tưởng, “Mẹ sát cánh
với nỗi thống khổ của Con mình; nâng đỡ Con bằng ánh mắt và che chở Con bằng
quả tim. Nỗi đau Mẹ mang lấy không làm cho Mẹ buông xuôi. Mẹ là người phụ nữ
mạnh mẽ thưa tiếng ‘xin vâng’, là người nâng đỡ và đồng hành, che chở và ôm ấp.
Mẹ là người gìn giữ niềm hy vọng thật tuyệt vời… Chúng ta học từ nơi Mẹ để biết
nói lời ‘xin vâng’ với sự nhẫn nại bền chí và tinh thần sáng tạo của những
người luôn mạnh dạn bắt đầu lại”. [19]

46. Maria là một thiếu nữ có tâm hồn thanh cao tràn
ngập niềm vui (x. Lc 1,47), đôi mắt
ngời sáng ánh sáng của Chúa Thánh Thần chiêm ngắm cuộc đời bằng đức tin và lưu
giữ mọi sự trong lòng (x. Lc
2,19.51). Đó là người phụ nữ ân cần, mau mắn lên đường khi biết rằng người chị
họ cần đến mình, chẳng bận tâm về các kế hoạch của mình, nhưng “vội vã” ra đi
đến miền đồi núi (Lc 1,39).

47. Và khi phải bảo vệ con mình, Mẹ đã cùng đi với
Giuse đến một xứ sở xa xôi (x. Mt
2,13-14). Mẹ lại cùng với các môn đệ quy tụ để cầu nguyện đang khi chờ đợi Chúa
Thánh Thần (x. Cv 1,14). Như thế,
trước sự hiện diện của Mẹ, một Hội Thánh trẻ trung được khai sinh, rồi các Tông
đồ lên đường để sinh hạ một thế giới mới (x. Cv 2,4-11).

48. Ngày nay, Đức Maria là người Mẹ chăm sóc chúng
ta, những người con của Mẹ; trên hành trình cuộc đời chúng ta thường gặp mệt
mỏi và thiếu thốn, nhưng mong sao ánh sáng hy vọng không bị dập tắt. Đó là điều
chúng ta mong ước: ánh sáng hy vọng sẽ không tàn lụi. Mẹ của chúng ta đoái nhìn
đoàn dân lữ hành này, một dân gồm những người trẻ mà Mẹ yêu thương, một dân
kiếm tìm Mẹ trong cõi lặng của tâm hồn, ngay cả khi trong cuộc hành trình có
nhiều ồn ào, nhiều huyên náo và phân tâm. Nhưng dưới ánh nhìn của Mẹ, chỉ còn
sự thinh lặng chất đầy hy vọng. Thế nên Đức Maria soi sáng tuổi trẻ của chúng
ta luôn mãi.

Các vị thánh trẻ

49. Trong lòng Hội Thánh cũng có rất nhiều vị thánh
trẻ, đã dâng hiến đời mình cho Đức Kitô, và nhiều vị đã đi đến chỗ chịu chết vì
đạo. Các ngài là những nét phản chiếu Đức Kitô trẻ trung; nét phản chiếu quý
giá ấy ngời sáng để khích lệ và đánh thức chúng ta ra khỏi cơn mê. Thượng Hội
đồng nhấn mạnh rằng “nhiều vị thánh trẻ đã cho thấy vẻ đẹp rực rỡ của tuổi
trẻ và, thời ấy, các ngài là những tiên tri đích thực thay đổi đời sống;
gương sáng của các ngài cho thấy người trẻ có khả năng làm được những gì
khi họ mở lòng ra để gặp gỡ Chúa Kitô”. [20]

50. “Qua sự thánh thiện của giới trẻ, Hội thánh có
thể bắt đầu sống lại nhiệt huyết thiêng liêng và lòng hăng say tông đồ.
Hương thơm thánh thiện tỏa ra từ đời sống lành thánh của biết bao người trẻ
có thể băng bó các vết thương của Hội thánh và của thế giới, và đưa chúng
trở lại với tình yêu viên mãn mà chúng ta đã được kêu gọi từ thuở đời đời:
các thánh trẻ thúc đẩy chúng ta trở về với tình yêu ban đầu (x. Kh 2,4)”. [21] Có những vị thánh chưa là
người lớn, nhưng đã để lại cho chúng ta chứng tá về việc sống tuổi trẻ theo một
cách khác. Ta hãy nhìn lại một số vị ấy, ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau,
mỗi vị đã nên thánh theo cách của mình:

51. Vào thế kỷ thứ ba, Thánh Sebastianô là một chỉ
huy trẻ trong Lực lượng Cận vệ Hoàng đế. Người ta kể rằng đi đâu ngài cũng nói
về Đức Kitô và tìm cách làm cho các đồng đội của mình theo đạo, đến mức ngài bị
buộc phải chối bỏ đức tin. Vì bất tuân lệnh ấy, ngài phải hứng một trận mưa mũi
tên, nhưng ngài vẫn sống sót và tiếp tục rao giảng về Đức Kitô mà không hề sợ
hãi. Cuối cùng, họ đánh đòn ngài cho đến chết.

52. Thánh Phanxicô Assisi là một người trẻ đầy mơ
ước. Ngài nghe tiếng Chúa Giêsu mời gọi trở nên nghèo khó như Người và cải tổ
Hội Thánh bằng chứng tá đời sống. Ngài đã hân hoan từ bỏ mọi sự, và nay trở
thành vị thánh của tình huynh đệ phổ quát, người anh em của mọi người, ca ngợi
Chúa vì công trình tạo dựng của Chúa. Thánh nhân qua đời năm 1226.

53. Thánh Jeanne d’Arc sinh năm 1412, là một thiếu nữ
nông dân. Dù tuổi đời còn trẻ, ngài đã chiến đấu bảo vệ nước Pháp chống kẻ
ngoại xâm. Bị hiểu lầm về cách ứng xử và cách sống đức tin của mình, thánh nhân
đã bị thiêu sống.

54. Chân phước Anrê Phú Yên là một thanh niên Việt
Nam sống vào thế kỷ 17. Ngài là một giáo lý viên và là trợ tá của các vị thừa
sai. Ngài bị tống giam vì đức tin, và vì không chịu từ bỏ đức tin, ngài đã bị
giết. Anrê chết trong lúc đang kêu Danh Thánh Giêsu.

55. Cũng vào thế kỷ 17, Thánh Kateri Tekakwitha, một
thiếu nữ thổ dân Bắc Mỹ, đã bị bách hại vì đức tin. Cô bỏ trốn bằng cách đi bộ
hơn ba trăm kilômét trong một khu rừng rậm. Kateri đã dâng hiến mạng sống cho
Thiên Chúa, và khi chết ngài thốt lên: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa!”

56. Thánh Đaminh Saviô thì dâng mọi đau khổ của mình
cho Đức Maria. Khi Thánh Gioan Bosco dạy ngài rằng nên thánh nghĩa là lúc nào
cũng vui vẻ, ngài đã mở lòng ra với một niềm vui có sức lan toả. Saviô tìm cách
gần gũi các bạn của ngài, những người bị bỏ rơi và bệnh tật nhiều nhất. Thánh
nhân qua đời năm 1857, lúc 14 tuổi, khi ấy ngài reo lên: “Tôi đang nhìn thấy
điều kỳ diệu biết bao!”

57. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu sinh năm 1873. Lúc 15
tuổi, ngài đã vượt qua nhiều khó khăn để được gia nhập tu viện Cát Minh. Têrêsa
đã sống con đường bé nhỏ của lòng tín thác tuyệt đối vào tình yêu của Chúa, và
muốn dùng đời sống cầu nguyện để làm cho ngọn lửa tình yêu đang linh hoạt Hội
Thánh luôn bùng cháy.

58. Chân phước Ceferino Namuncurá là một thanh niên
người Argentina, con trai một thủ lãnh lớn của một bộ tộc bản địa. Ngài trở
thành một chủng sinh Salêdiêng, rất tha thiết trở về bộ tộc của mình để đưa mọi
người đến với Chúa Giêsu Kitô. Ceferino qua đời năm 1905.

59. Chân phước Isidore Bakanja là một giáo dân người
Congo làm chứng về đức tin. Ngài bị hành hạ một thời gian dài vì đã giới thiệu
Kitô giáo cho các bạn trẻ khác. Isidore qua đời năm 1909 trong khi tha thứ cho
kẻ hành hình mình.

60. Chân phước Pier Giorgio Frassati, qua đời năm
1925, “là một thanh niên tràn đầy niềm vui có sức lan toả, niềm vui vượt qua
nhiều khó khăn trong cuộc đời của ngài”. [22] Pier Giorgio nói rằng ngài muốn
đáp lại tình yêu của Chúa Giêsu mà ngài lãnh nhận khi rước lễ, bằng cách đi
thăm và giúp đỡ người nghèo.

61. Chân phước Marcel Callo là một thanh niên người
Pháp, qua đời năm 1945. Marcel bị giam trong một trại tập trung ở Áo, ở đó ngài
đã củng cố đức tin cho các bạn tù, giữa môi trường lao động khổ sai.

62. Chân phước trẻ Chiara Badano, qua đời năm 1990,
“đã cảm nghiệm rằng đau khổ có thể được biến đổi nhờ tình yêu… Bí quyết để có
an bình và vui tươi của Chiara là hoàn toàn tín thác nơi Chúa và đón nhận bệnh
tật như một biểu lộ huyền nhiệm Ý Chúa để mưu ích cho cô và cho tất cả mọi
người”. [23]

63. Nguyện xin các vị ấy, và nhiều vị khác nữa đã
sống Phúc âm cách triệt để trong âm thầm mà chẳng ai biết đến, chuyển cầu cho
Hội Thánh để Hội Thánh có nhiều người trẻ vui tươi, can đảm và dấn thân, cống
hiến cho thế giới những chứng tá mới về sự thánh thiện.

 

CHƯƠNG BA

CÁC CON LÀ HIỆN TẠI CỦA
THIÊN CHÚA

64. Sau khi đã đọc qua Lời Chúa, chúng ta không thể
chỉ nói rằng người trẻ là tương lai của thế giới. Họ là hiện tại của thế giới;
họ góp phần làm cho thế giới được phong phú. Người trẻ không còn là trẻ con, họ
ở trong giai đoạn bắt đầu đảm nhận những trách nhiệm, khi cùng với người lớn
tham gia vào việc phát triển gia đình, xã hội và Hội Thánh. Tuy nhiên, thời thế
đang thay đổi, và câu hỏi đặt ra là: Người trẻ ngày nay như thế nào? Điều gì
đang xảy ra với họ?

Về mặt tích cực

65. Thượng Hội đồng nhìn nhận rằng các tín hữu trong
Hội Thánh không phải bao giờ cũng có thái độ như Đức Giêsu. Thay vì sẵn sàng
lắng nghe, chúng ta lại có “khuynh hướng đưa ra những câu trả lời có sẵn và
đề nghị những cách thức nghĩ sẵn, mà không để người trẻ đặt ra những
câu hỏi mới mẻ, và chúng ta cũng không thấy được các câu hỏi ấy thách
thức chúng ta ở điểm nào” [24] Nhưng trái lại, khi Hội Thánh bỏ đi những
khuôn khổ cứng nhắc để mở lòng ra, sẵn sàng và ân cần lắng nghe người trẻ, thì
niềm thấu cảm này sẽ làm cho Hội Thánh nên phong phú, vì nó “cho phép người
trẻ mang lại điều gì đó cho cộng đồng, vì lắng nghe giúp cộng đồng
nhận ra những khuynh hướng mới và biết đặt ra cho mình những câu hỏi mới”.
[25]

66. Ngày nay, người lớn chúng ta rơi vào nguy cơ dựng
nên một bản liệt kê những vấp váp, những thất bại của người trẻ. Có lẽ một số
người lại hoan nghênh vì chúng ta tỏ ra có tài trong việc tìm ra những điểm
tiêu cực và nguy hiểm. Nhưng thái độ ấy dẫn đến hệ quả gì? Hệ quả là càng xa
cách hơn, ít gần gũi hơn, ít hỗ trợ nhau hơn.

67. Sự sáng suốt của những người được kêu gọi làm cha
mẹ, làm mục tử hay người hướng dẫn các bạn trẻ là ở chỗ tìm ra được ngọn lửa
còn cháy leo lét, cây sậy bị giập (x. Is
42,3) nhưng chưa bị bẻ gãy. Đó là khả năng tìm ra con đường ở nơi mà người khác
chỉ nhìn thấy những bức tường, là tài nhận ra tiềm năng ở nơi mà người khác chỉ
thấy hiểm hoạ. Như thế, cái nhìn của Thiên Chúa Cha là cái nhìn trân trọng và
nuôi dưỡng những hạt giống thiện hảo đã được gieo trong tâm hồn người trẻ. Vì
vậy tâm hồn của mỗi người trẻ phải được xem là “đất thánh”, nơi mang các hạt
giống sự sống thần linh; chúng ta phải “cởi giày ra” để có thể đến gần và đi
sâu vào Mầu nhiệm.

Có nhiều giới trẻ khác nhau

68. Chúng ta có thể thử mô tả những đặc tính của
người trẻ ngày nay, nhưng trước hết tôi muốn nhắc lại một nhận xét của các Nghị
phụ: “Chính sự tham dự đông đảo của nhiều thành phần tại Thượng Hội đồng
đã cho thấy ở đây có sự hiện diện và đóng góp của nhiều vùng khác nhau
trên thế giới, đồng thời cũng đã làm nổi bật vẻ đẹp của một Hội
thánh phổ quát. Bất chấp bối cảnh toàn cầu hoá ngày càng gia tăng, các Nghị
phụ đã yêu cầu làm rõ những khác biệt đa dạng giữa các bối cảnh và văn hoá,
ngay cả trong cùng một quốc gia. Có vô số thế giới người trẻ, đến nỗi ở một
số quốc gia người ta có khuynh hướng nói “những giới trẻ” hơn là “giới
trẻ”. Hơn nữa, nhóm tuổi được Thượng Hội đồng gọi là giới trẻ (16-29 tuổi)
không đại diện cho một tổng thể đồng nhất, nhưng bao gồm nhiều nhóm có những
hoàn cảnh riêng biệt”. [26]

69. Từ quan điểm nhân khẩu học, một số quốc gia có
nhiều người trẻ, trong khi một số quốc gia khác lại có tỷ lệ sinh rất thấp. Tuy
nhiên, “một sự khác biệt nữa bắt nguồn từ lịch sử, làm cho các quốc gia và lục
địa theo truyền thống Kitô giáo cổ đại, nơi có nền văn hoá mang một ký ức cần
được bảo tồn, khác biệt với các quốc gia và lục địa khác, ngược lại, được đánh
dấu bởi các truyền thống tôn giáo khác và trong đó Kitô giáo là một thiểu số,
đôi khi chỉ mới xuất hiện gần đây. Ngoài ra, ở những nơi khác, các cộng đồng
Kitô hữu trong đó có nhiều người trẻ là đối tượng của việc bắt bớ” [27]. Cũng
phải phân biệt những người trẻ “ngày càng có nhiều cơ hội nhờ vào toàn cầu
hoá, với những người trẻ sống bên lề xã hội hay trong thế giới nông thôn và
những người trẻ phải gánh chịu nhiều hình thức loại trừ và hắt hủi”. [28]

70. Còn nhiều sự khác biệt nữa, nếu trình bày chi
tiết ở đây sẽ rất phức tạp. Vì thế, tôi thiết tưởng không cần dừng lại để đưa
ra một phân tích tường tận về người trẻ trong thế giới hôm nay, về lối sống và
hoàn cảnh của họ. Tuy nhiên tôi cũng không thể không nhìn vào thực tế, nên tôi
sẽ trình bày vắn tắt một số đóng góp nhận được trước khi diễn ra Thượng Hội
đồng, và một số đóng góp khác tại Thượng Hội đồng.

Một số kinh nghiệm của người
trẻ

71. Tuổi trẻ không phải là cái mà người ta có thể
phân tích một cách trừu tượng. Thật vậy, không có “tuổi trẻ”, mà chỉ có những
người trẻ với cuộc đời cụ thể của họ. Trong thế giới có nhiều thay đổi hôm nay,
nhiều cuộc đời ấy phải đối mặt với đau khổ và lợi dụng.

Người trẻ trong một thế giới
đang khủng hoảng

72. Các Nghị phụ phải đau lòng nhấn mạnh rằng “nhiều
người trẻ đang sống trong bối cảnh chiến tranh và phải gánh chịu bạo lực
dưới vô số hình thức: bắt cóc, tống tiền, tội phạm có tổ chức, buôn bán người,
nô lệ tình dục và khai thác tình dục, hãm hiếp trong chiến tranh, v.v. Nhiều
người trẻ khác vì đức tin của mình mà khó tìm được một việc làm trong xã
hội và phải gánh chịu nhiều hình thức bách hại có thể đưa đến cái chết.
Rất nhiều người trẻ, vì bị ép buộc hay vì không còn chọn lựa nào khác,
đang sống trong tình trạng phạm tội ác và gây bạo lực: binh lính trẻ em,
băng đảng tội phạm có vũ trang, buôn lậu ma tuý, khủng bố, v.v. Tình trạng
bạo lực này làm tan nát cuộc đời nhiều người trẻ. Những trường hợp bị
lạm dụng và nghiện ngập, cũng như bạo lực và những hành vi lệch lạc, cũng
là lý do khiến giới trẻ lâm vào cảnh tù tội, và tình trạng này liên quan
đặc biệt đến một số nhóm sắc tộc và xã hội”. [29]

73. Nhiều người trẻ khác bị tuyên truyền, bị biến
thành công cụ và bị sử dụng làm bia đỡ đạn hay lực lượng xung kích để tiêu
diệt, đe doạ hay chế giễu người khác. Tệ hơn nữa, có nhiều người trở thành
những con người theo chủ nghĩa cá nhân, thù địch và nghi ngờ mọi người; đến mức
trở nên miếng mồi ngon cho những trao đổi phi nhân và những kế hoạch huỷ diệt
của các tập đoàn chính trị hay các thế lực kinh tế.

74. Tuy nhiên     “xảy
ra nhiều hơn nữa trên thế giới là trường hợp của những người trẻ bị
gạt ra bên lề và bị loại trừ khỏi xã hội cách này cách khác, vì lý do tôn
giáo, sắc tộc hay kinh tế. Chúng ta hãy nhớ đến hoàn cảnh khốn khó của
những cô gái, vị thành niên lẫn thành niên, phải mang bầu, đến vết
thương lòng của họ sau khi phá thai, đến tầm mức lan rộng của HIV, đến
những hình thức nghiện ngập (ma tuý, cờ bạc, nội dung khiêu dâm, v.v.) và
cả đến hoàn cảnh của những trẻ em và thanh thiếu niên đường phố, không nhà
cửa, không gia đình và không nguồn lợi kinh tế”. [30] Ngoài ra, đối với nữ
giới, những hoàn cảnh bị gạt ra bên lề này lại trở nên khó khăn và khổ sở gấp
đôi.

75. Chúng ta đừng trở nên một Hội Thánh vô cảm trước
những thảm kịch ấy của những người trẻ là con cái mình. Chúng ta đừng bao giờ
rơi vào thói quen ấy, vì ai không biết khóc thì không phải là mẹ. Chúng ta muốn
khóc để cho xã hội cũng phải trở thành một người mẹ đúng nghĩa hơn, để thay vì
sát hại thì xã hội học biết cách sinh thành, trở thành nơi hứa hẹn của sự sống.
Chúng ta khóc khi nhớ đến những người trẻ phải bỏ mạng vì nghèo đói và bạo lực,
và chúng ta kêu gọi xã hội học cách trở nên một người mẹ biết chăm sóc con
mình. Nỗi đau này chẳng nguôi ngoai; nhưng vẫn đi theo chúng ta, vì thực tế
không thể che giấu được. Điều tệ hại nhất chúng ta có thể làm là dùng cách mà
tinh thần thế gian vẫn làm, tức là ru ngủ người trẻ bằng những thông điệp khác,
những mối bận tâm khác, những điều tầm thường khác.

76. Có lẽ “chúng ta đang có một cuộc sống không thiếu
thốn gì nhiều, nên chúng ta không biết khóc. Có những thực tế trong cuộc đời
chỉ có thể nhìn thấy bằng đôi mắt đẫm lệ. Cha muốn mỗi người trong các con hãy
tự hỏi mình: Tôi có biết khóc không? Tôi có biết khóc khi thấy một đứa trẻ đang
đói, một đứa trẻ nghiện ma túy trên đường phố, một đứa trẻ vô gia cư, bị bỏ
rơi, bị lạm dụng, một đứa trẻ bị khai thác như nô lệ? Hay những giọt nước mắt
của tôi là những giọt nước mắt hờn trách của kẻ khóc để đòi thêm món đồ khác?”
[31]. Con hãy học biết khóc cho những bạn trẻ đang ở trong hoàn cảnh hèn kém
hơn mình. Khóc cũng là cách diễn tả lòng thương xót và trắc ẩn. Nếu không khóc
được, hãy xin Chúa ban cho con ơn biết cảm thương trước những khổ đau của tha
nhân. Một khi con biết khóc, con sẽ có thể làm điều gì đó cho người khác với cả
tấm lòng.

77. Đôi khi, nỗi đau của một số người trẻ thật xé
lòng, nỗi đau ấy không thể diễn tả thành lời, nỗi đau ấy như cái vả mạnh vào
mặt chúng ta. Chỉ có họ mới có thể thưa với Chúa rằng họ đang đau khổ nhiều
lắm, rằng họ phải trả giá quá đắt cho việc thăng tiến, rằng họ không còn tin vào
ai nữa. Nhưng trong lời kêu van thống thiết ấy, còn có những lời của Đức Giêsu:
“Phúc cho ai than khóc, vì họ sẽ được an ủi” (Mt 5,4). Có những bạn trẻ đã có thể tìm ra lối đi trong đời nhờ
nghe được lời hứa ấy của Chúa. Ước gì luôn có một cộng đoàn Kitô hữu ở bên một
bạn trẻ đang đau khổ, cộng đoàn biết làm cho lời hứa ấy thành hiện thực bằng
những cử chỉ, bằng sự bảo bọc và những trợ giúp cụ thể.

78. Quả thực, những người nắm quyền cũng có trợ giúp
phần nào, nhưng thường là với một cái giá cao ngất. Tại nhiều nước nghèo, những
trợ giúp kinh tế của các nước giàu hơn hay của các tổ chức quốc tế có thể bị
ràng buộc với việc phải chấp nhận các quan điểm của phương Tây về tính dục, về
hôn nhân, về sự sống hay về công bằng xã hội. Tình trạng thực dân về ý thức hệ
này tác hại đặc biệt đối với người trẻ. Chúng ta còn thấy cách mà một loại
quảng cáo nào đó dạy cho người trẻ đừng bao giờ thoả mãn, quảng cáo ấy góp phần
cổ võ nền văn hoá vứt bỏ, trong đó chính những người trẻ cuối cùng lại trở
thành món đồ bị vứt bỏ.

79. Nền văn hoá hiện nay trình bày hình mẫu con người
gắn liền với hình ảnh của người trẻ. Người đẹp là người có vẻ trẻ trung, tìm
cách che đi dấu vết của thời gian. Quảng cáo luôn dùng thân xác của người trẻ
để bán sản phẩm. Hình mẫu của cái đẹp là hình mẫu trẻ trung, nhưng hãy coi
chừng, vì đó chẳng phải là lời khen ngợi dành cho người trẻ. Điều đó chỉ có
nghĩa là người lớn muốn cướp lấy tuổi trẻ về cho mình, chứ không phải họ tôn
trọng, yêu thương và chăm sóc người trẻ.

80. Một số người trẻ “cảm thấy bị đè nén bởi các
truyền thống gia đình và tìm cách chạy trốn theo tiếng mời gọi của nền văn
hoá đã được toàn cầu hóa, và vì thế đôi khi lấy mất đi của họ mọi
điểm quy chiếu. Ngược lại, ở một số nơi khác trên thế giới, tuy không có
xung đột thế hệ thực sự giữa người trẻ và người lớn, nhưng họ lại không
màng đến nhau. Đôi khi người lớn không cố gắng hay không truyền đạt được
những giá trị căn bản của cuộc sống, hoặc có lối sống chưa trưởng thành,
nên gây ra tình trạng đảo ngược trong tương quan giữa các thế hệ. Như thế,
mối quan hệ giữa người trẻ và người lớn có nguy cơ dừng lại trên phương
diện tình cảm, mà không bao giờ chạm đến chiều kích giáo dục và văn hoá”.
[32] Điều đó thật tác hại cho giới trẻ biết bao, dù một số người không để ý!
Chính những người trẻ này cho chúng ta biết rằng tình trạng ấy làm cho việc
thông truyền đức tin trở nên vô cùng khó khăn “tại một số nước không có tự do
ngôn luận và tại những nơi mà họ bị ngăn cản tham dự vào đời sống Hội Thánh”.
[33]

Những khao khát, những tổn
thương và những tìm kiếm

81. Người trẻ biết rằng thân xác và tính dục có một
tầm quan trọng thiết yếu đối với đời sống và tiến trình trưởng thành trong căn
tính của họ. Nhưng trong một thế giới quá đặt nặng vấn đề tính dục, thật khó
giữ được một mối tương quan tốt đẹp với thân xác mình và sống bình yên các mối
quan hệ tình cảm. Vì lý do này và nhiều lý do khác nữa, luân lý tính dục rất
thường đi đến chỗ trở thành “lý do làm cho Hội thánh bị hiểu lầm và xa
lánh, vì bị xem như nơi để phán xét và lên án”. Tuy nhiên, người trẻ cũng bày
tỏ “mong muốn được đối thoại về những vấn đề liên quan đến sự khác biệt căn
tính và tính hỗ tương giữa người nam và người nữ, cùng vấn đề đồng tính
luyến ái”. [34]

82. Ở thời đại của chúng ta, “những phát triển khoa
học và những công nghệ y sinh đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức về thân
xác, dẫn đến ý tưởng rằng không còn giới hạn nào có thể ngăn cản
việc cải biến thân thể. Khả năng chỉnh sửa ADN, khả năng chèn những yếu
tố nhân tạo vào cơ thể (cyborg) và sự
phát triển của khoa học thần kinh tạo ra một lợi ích rất lớn, nhưng đồng
thời cũng gây ra nhiều vấn đề về nhân học và đạo đức” [35]. Những điều này có
thể dẫn chúng ta đi đến chỗ quên rằng sự sống là một ân ban và chúng ta là
những thụ tạo giới hạn, chúng ta có thể dễ dàng bị những kẻ có quyền lực về
công nghệ biến thành công cụ. [36] “Hơn nữa, trong một số môi trường, có
nhiều người trẻ ngày càng bị lôi cuốn vào những hành vi mạo hiểm, như
một cách để khám phá bản thân, để tìm kiếm cảm giác mạnh và để được người
khác công nhận. […] Các thế hệ mới bị tiếp xúc thường xuyên với những
hiện tượng này khiến họ khó có thể thanh thản trưởng thành”. [37]

83. Nơi người trẻ, cũng có những va vấp, những thất
bại và những ký ức buồn thảm hằn sâu trong tâm hồn. Thường đó là “thương tích
gây ra bởi những thất bại trong lịch sử của chính mình, bởi những ước muốn
không thành, bởi những kỳ thị và những bất công phải chịu, hoặc vì không cảm
thấy được yêu thương hay công nhận”. Hơn nữa, “có cả những thương tích tinh
thần, đó là sức nặng của những lỗi lầm đã phạm, của mặc cảm tội lỗi
sau khi phạm sai lầm” [38]. Giữa những thập giá này mà người trẻ phải vác lấy,
có Đức Giêsu ở đó để trao ban cho họ tình bạn, niềm an ủi và sự đồng hành có
sức chữa lành của Người. Còn Hội Thánh muốn trở nên khí cụ của Đức Giêsu trên
con đường này, con đường dẫn đến phục hồi nội tâm và bình an cho tâm hồn.

84. Nơi một số người trẻ, chúng ta nhận ra họ có một
khát vọng về Thiên Chúa, mặc dù không phải là tất cả những phác hoạ về Thiên
Chúa đã được mặc khải. Nơi những người trẻ khác, chúng ta có thể thoáng thấy
một mơ ước về tình huynh đệ, một điều không phải là không quan trọng. Nhiều bạn
trẻ có một khát vọng thực sự muốn phát triển các tài năng của mình để cống hiến
điều gì đó cho đời. Nơi một số bạn trẻ khác, chúng ta lại thấy họ nhạy cảm đặc
biệt với nghệ thuật, hay muốn sống hoà điệu với thiên nhiên. Nơi một số khác
nữa, có thể đó là mối quan tâm lớn về truyền thông. Nơi nhiều người trong số
họ, chúng ta gặp thấy một khát vọng sâu xa muốn sống đời mình cách khác biệt.
Đó là những khởi điểm thật sự, những nguồn lực nội tại đang chờ đợi và sẵn sàng
đón nhận một lời thúc đẩy, soi sáng và khích lệ.

85. Thượng Hội đồng đặc biệt bàn về ba đề tài lớn mà
tôi sẽ trích dẫn những đúc kết về các đề tài ấy ở đây, dù biết chúng ta còn
phải phân tích kỹ lưỡng hơn và phải phát huy khả năng đáp ứng thích hợp và hữu
hiệu hơn.

Thế giới kỹ thuật số

86. “Thế giới kỹ thuật số đặc trưng cho thế giới
đương thời. Thông thường, có rất nhiều người đang triền miên đắm chìm
trong thế giới ấy. Giờ đây, vấn đề không chỉ còn là ‘sử dụng’ các công
cụ truyền thông, mà là sống trong một nền văn hoá đã được số hoá rộng rãi. Nền
văn hoá ấy tác động sâu xa lên khái niệm không gian và thời gian, lên cách
nhận thức về bản thân, về tha nhân và về thế giới, lên cách giao tiếp, cách
học hỏi, cách tìm hiểu thông tin và cách tương quan với người khác.
Cách tiếp cận thực tế có khuynh hướng chú trọng đến nhìn hơn là nghe và đọc
sẽ ảnh hưởng đến cách học hỏi cũng như đến sự phát triển của óc phê phán”
[39].

87. Internet và các mạng xã hội đã tạo ra một cách
thức mới để truyền thông và thiết lập tương quan, đó là “nơi giới trẻ dành
rất nhiều thời gian và gặp gỡ nhau dễ dàng, mặc dù không phải mọi người đều có
thể truy cập cùng một cách như nhau, đặc biệt là ở một số vùng trên thế
giới. Dù sao, những trang mạng đang tạo nên một cơ hội đặc biệt để đối thoại,
gặp gỡ và trao đổi với nhau, cũng như để tiếp cận thông tin và tri thức. Hơn
nữa, môi trường kỹ thuật số là bối cảnh để tham gia chính trị và xã hội
và để thực thi quyền công dân cách tích cực, và môi trường ấy có thể tạo
thuận lợi để truyền tải một nguồn thông tin độc lập, có khả năng bảo vệ
cách hữu hiệu những người yếu thế nhất bằng cách vạch trần giữa thanh
thiên bạch nhật những hành vi xâm phạm các quyền của họ. Tại rất nhiều
quốc gia, Internet và các mạng xã hội giờ đây là nơi không thể thiếu để tiếp
cận giới trẻ và mời gọi họ tham gia, đặc biệt là vào những sáng kiến
và hoạt động mục vụ” [40].

88. Nhưng để hiểu toàn bộ hiện tượng này, chúng ta
cần nhận ra rằng, cũng như mọi thực tại nhân văn, nó cũng có những giới hạn và
khiếm khuyết. Sẽ là không đúng đắn nếu chúng ta lẫn lộn truyền thông với sự
giao tiếp hoàn toàn ảo. Thật vậy, “thế giới kỹ thuật số cũng là một không
gian đầy cô đơn, thao túng, khai thác và bạo lực, cho đến cực điểm là
trường hợp các trang web đen (dark web). Các
phương tiện truyền thông kỹ thuật số có thể khiến mọi người bị lệ thuộc, cô
lập và mất dần sự tiếp xúc với đời sống thực tế cụ thể, và như thế
chúng cản trở sự phát triển của các mối quan hệ đích thực giữa người với
người. Nhiều hình thức bạo lực mới đang được phổ biến qua các phương tiện
truyền thông xã hội, chẳng hạn như
việc ma cũ ăn hiếp ma mới bằng cách tra tấn tinh thần trên mạng; mạng
cũng là một kênh để phổ biến các nội dung khiêu dâm và để khai thác người dùng
nhằm mục đích tình dục hoặc bóc lột họ qua các trò chơi may rủi” [41].

89. Đừng quên rằng “nhiều hoạt động nhằm lợi ích
kinh tế khổng lồ đang diễn ra trong thế giới kỹ thuật số. Chúng có khả năng
cài đặt những hình thức kiểm soát tinh vi rộng khắp, tạo ra những cơ chế
nhằm thao túng lương tâm của nhiều cá nhân và tiến trình dân chủ của
nhiều dân tộc. Nếu có nhiều diễn đàn vận hành, cuối cùng khi nào
chúng cũng sẽ tạo điều kiện để những người có lối nghĩ giống nhau gặp
được nhau, và như thế chúng làm mất đi cơ hội để các khác biệt có thể
đối chiếu với nhau. Những vòng khép kín này tạo thuận lợi để phát tán
thông tin giả mạo và tin tức sai lệch, đồng thời nuôi dưỡng thành kiến và
lòng hận thù. Tình trạng tin giả (fake
news)
ngày càng sinh sôi nảy nở là biểu hiện của một nền văn hoá đã mất
ý thức về sự thật và lèo lái các sự kiện theo những lợi ích riêng tư.
Danh dự của nhiều người bị đe doạ qua những cuộc xét xử sơ sài trực tuyến
trên mạng (on line). Hiện tượng này
cũng liên quan đến Hội thánh và các mục tử” [42].

90. Trong một tài liệu do ba trăm bạn trẻ trên khắp
thế giới soạn trước khi diễn ra Thượng Hội đồng, họ đã chỉ ra rằng “những mối
tương quan trên mạng có thể trở thành phi nhân. Không gian số khiến mắt chúng
ta trở thành mù trước tình trạng dễ tổn thương của người khác, và ngăn cản
chúng ta tự mình suy nghĩ. Các vấn đề như khiêu dâm làm méo mó nhận thức của
người trẻ về tính dục con người. Công nghệ được dùng theo cách này tạo ra một
thực tế ảo song song, không màng đến phẩm giá con người”. [43] Việc chìm đắm
trong thế giới ảo dễ dàng đưa tới một kiểu “di cư kỹ thuật số”, nghĩa là xa rời
gia đình cũng như các giá trị văn hoá và tôn giáo. Thái độ này đẩy nhiều người
vào một thế giới cô đơn và tự dò dẫm, đến mức họ cảm thấy mất gốc mặc dù trong
thực tế họ vẫn ở chỗ đó. Lối sống mới ứ trào của những người trẻ thúc đẩy họ đi
tìm và khẳng định tính cách của mình ngày nay đang đương đầu với một thách đố
mới: đó là việc tương tác với một thế giới thực và ảo mà họ bước vào một mình,
như là bước vào một lục địa xa lạ. Người trẻ hôm nay là những người trước hết
phải thực hiện sự tổng hợp này giữa những gì là cá vị, những gì là riêng biệt
của mỗi nền văn hoá, với những gì là phổ quát. Chính vì thế họ phải vượt qua
được kiểu giao tiếp ảo để đi đến một lối truyền thông tốt đẹp và lành mạnh.

Di dân, một mẫu thức của
thời đại chúng ta

91. Làm sao chúng ta lại không nghĩ đến nhiều người
trẻ bị ảnh hưởng bởi hiện tượng di dân? “Di dân không phải một trường hợp khẩn cấp
có tính tạm thời. Các cuộc di dân có thể diễn ra trong cùng một quốc gia hoặc
giữa các quốc gia khác nhau. Hội thánh đặc biệt quan ngại cho những người
phải chạy thoát khỏi chiến tranh, bạo lực, các hành vi đàn áp chính trị
hay tôn giáo, các thảm họa tự nhiên do biến đổi khí hậu hay do tình trạng
nghèo đói cùng cực: nhiều người trong số họ là người trẻ. Nói chung, họ đang
đi tìm cơ hội cho bản thân và cho gia đình mình. Họ mơ ước một tương lai tốt
đẹp hơn và mong muốn tạo ra những điều kiện để thực hiện ước mơ đó” [44]. Di
dân “nhắc cho chúng ta nhớ lại thân phận của những kẻ tin thuở ban đầu,
đó là thân phận “ngoại kiều và lữ khách trên mặt đất” (Dt 11,13) “. [45]

92. Có những di dân khác “bị lôi cuốn bởi nền văn
hoá phương Tây; đôi khi họ ấp ủ những kỳ vọng không thực tế khiến họ bị thất
vọng ê chề. Những kẻ buôn người vô lương tâm, thường có dính dáng đến
những băng đảng buôn bán ma túy và vũ khí, lợi dụng tâm lý yếu đuối của
di dân, là những người, trong suốt cuộc hành trình, đã quá nhiều lần
phải đối diện với bạo lực, nạn buôn người, những hành vi lạm dụng tâm lý
và thậm chí thể lý, và những nỗi đau khôn tả. Cần vạch ra cho thấy tình
trạng bấp bênh đặc biệt của những di dân không có người thân đi cùng và tình
trạng của những người buộc phải ở nhiều năm trong trại tị nạn hoặc bị kẹt lại
lâu năm ở quốc gia quá cảnh, khiến họ không thể theo đuổi việc học hành
hay thi thố tài năng. Ở một số quốc gia mà họ đến, hiện tượng di dân đã gây
nên e ngại và lo sợ cho dân chúng, những cảm xúc này thường bị kích
động và khai thác nhằm mục đích chính trị. Vì thế đã lan rộng một tâm
lý bài ngoại, khép kín và co cụm vào chính mình. Chúng ta cần phản ứng
quyết liệt trước tình trạng này” [46].

93. “Những người trẻ di cư bị sống tách biệt với
môi trường xuất thân và thường cảm thấy mất gốc về mặt văn hoá và tôn
giáo. Tình trạng ly tán cũng ảnh hưởng đến các cộng đồng ở quê nhà vì
họ bị mất đi các thành viên rắn rỏi và tháo vát nhất, và tình trạng
này cũng ảnh hưởng đến các gia đình, đặc biệt là khi cha hoặc mẹ, hay cả
hai, bỏ con cái ở lại quê nhà để di cư. Hội thánh có vai trò quan trọng là
hướng dẫn những người trẻ thuộc các gia đình tan vỡ này. Nhưng chuyện di
dân cũng là chuyện gặp gỡ giữa con người và văn hoá: đối với cộng đồng và
xã hội tiếp nhận họ, di dân mang đến cơ hội để mọi người được giàu thêm
kinh nghiệm và để phát triển con người toàn diện. Theo quan điểm này,
những sáng kiến của Hội thánh nhằm tiếp nhận di dân đóng một vai trò
quan trọng và có thể đem lại sức sống mới cho những cộng đồng có khả năng
khai triển các sáng kiến ấy” [47].

94. “Nhờ có các Nghị phụ đến từ nhiều quốc
gia, nên khi bàn luận về vấn đề di dân, Thượng Hội đồng đã thu thập được
nhiều quan điểm khác nhau, đặc biệt là giữa các quốc gia đi và các quốc gia
đến. Hơn nữa, chúng ta đã nghe thấy tiếng kêu báo động từ các Hội thánh có
thành viên buộc phải chạy trốn khỏi chiến tranh và sự bách hại, và đối
với những người này, những cuộc di dân bó buộc như thế đe doạ chính
cuộc sống của họ. Chính vì tập hợp được tất cả những quan điểm khác
nhau này, nên, trong lĩnh vực di dân, Hội thánh có điều kiện để thi
hành một vai trò mang tính ngôn sứ đối với xã hội” [48]. Đặc biệt, cha xin
các bạn trẻ đừng tham gia vào các mạng lưới của những kẻ muốn dùng các con
chống lại các bạn trẻ khác di cư đến đất nước của các con, khi coi họ là những
kẻ nguy hiểm và như những người không có cùng phẩm giá bất khả nhượng riêng cho
mỗi người.

Chấm dứt mọi hình thức lạm
dụng

95. Thời gian gần đây, người ta mạnh mẽ kêu gọi chúng
ta lắng nghe tiếng than khóc của các nạn nhân của đủ loại lạm dụng khác nhau do
một số giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân đã phạm. Những tội này gây ra cho
các nạn nhân của họ “những nỗi đau khổ có thể kéo dài suốt cả đời người
mà chẳng có sự ăn năn thống hối nào có thể chữa lành. Hiện tượng này
nhan nhản trong xã hội, nhưng cũng liên quan đến Hội thánh và là một trở
ngại nghiêm trọng cho sứ vụ truyền giáo của Hội thánh” [49].

96. Hẳn thế, “thật đáng tiếc khi tai hoạ lạm dụng
tình dục trẻ vị thành niên là một hiện tượng phổ biến trong tất cả các nền văn
hoá và xã hội”, đặc biệt là ở ngay trong chính các gia đình và trong nhiều tổ
chức; tầm mức lan rộng của nó được phát hiện chủ yếu “nhờ vào sự thay đổi trong
tính nhạy cảm của công luận”. Tuy nhiên, “mặc dù tai hoạ này đã lan rộng khắp
các xã hội của chúng ta, nhưng không vì thế mà làm giảm đi tính quái gở khi xảy
ra trong Hội Thánh” và “trong cơn giận dữ chính đáng của mọi người, Hội Thánh
nhìn thấy sự phản chiếu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, Đấng bị phản bội và xúc
phạm” [50].

97. “Thượng Hội đồng tái khẳng định sẽ cương quyết
áp dụng những biện pháp ngăn ngừa nghiêm ngặt nhằm tránh không cho điều
này xảy ra nữa, bắt đầu bằng biện pháp tuyển chọn và đào tạo những
người sẽ được giao cho nhiệm vụ phụ trách và giáo dục” [51]. Đồng thời,
không được bỏ qua việc dùng đến “những biện pháp và những hình phạt thật cần
thiết” [52]. Và chúng ta làm tất cả những điều này nhờ ân sủng của Đức Kitô.
Không thể có chuyện lùi bước.

98. “Có nhiều loại lạm dụng khác nhau: lạm dụng
quyền lực, lạm dụng kinh tế, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình dục. Rõ
ràng là phải xoá sạch những hình thức thực thi quyền bính vốn tạo điều
kiện cho sự lạm dụng, và phải chống lại tinh thần thiếu trách nhiệm và
thiếu minh bạch vốn đã dẫn đến nhiều trường hợp lạm dụng. Khát vọng thống
trị, tinh thần thiếu đối thoại và thiếu minh bạch, các hình thức sống hai
mặt, tình trạng trống vắng tâm linh, cũng như những tâm lý yếu đuối chính
là mảnh đất màu mỡ để thói biến chất sinh sôi nảy nở” [53]. Chủ nghĩa
giáo sĩ trị là một cám dỗ thường xuyên của các linh mục, các vị coi “thừa tác
vụ đã lãnh nhận như quyền lực để sử dụng, chứ không phải là một sự phục vụ
nhưng không và quảng đại mà mình phải cống hiến. Cách nhìn đó dẫn tới chỗ tin
rằng mình thuộc về một nhóm nắm giữ mọi lời giải đáp mà chẳng cần lắng nghe hay
học hỏi gì thêm nữa, hay chỉ giả vờ lắng nghe mà thôi” [54]. Rõ ràng, tinh thần
giáo sĩ trị làm cho những người được thánh hiến dễ dàng đánh mất lòng kính
trọng giá trị thánh thiêng và bất khả nhượng của mỗi con người và sự tự do của
họ.

99. Cùng với các Nghị phụ Thượng Hội đồng, tôi xin
bày tỏ “lòng biết ơn đối với những người đã dũng cảm tố cáo sự dữ họ
phải hứng chịu: họ giúp Giáo hội ý thức được những gì đã xảy ra cũng
như cần phải phản ứng quyết liệt” [55]. Và tôi cũng đặc biệt biết ơn về
“những nỗ lực chân thành của vô số nam nữ giáo dân, tu sĩ, linh mục và giám
mục, là những người, hằng ngày, tận tụy hy sinh xả thân phục vụ giới trẻ.
Công việc của họ như một cánh rừng đang phát triển mà không gây tiếng động.
Rất nhiều người trẻ có mặt tại Thượng Hội đồng cũng đã bày tỏ lòng biết ơn
đối với những người đã đồng hành với họ và đã nhắc lại rằng họ rất cần
những tấm gương quy chiếu” [56].

100. Cám ơn Chúa vì số linh mục phạm các tội
ác khủng khiếp này chỉ là thiểu số; đa số linh mục đang thi hành sứ vụ một cách
trung thành và quảng đại. Cha xin những người trẻ hãy để cho mình được khích lệ
bởi đa số này. Dù sao, khi các con gặp một linh mục đang ở trong tình trạng
nguy hiểm, vì ngài đã mất niềm vui thi hành sứ vụ, vì ngài đang đi tìm sự bù
đắp tình cảm hoặc đi chệch hướng, các con hãy can đảm nhắc nhở ngài về cam kết
dấn thân của ngài với Thiên Chúa và với dân Chúa. Chính các con phải loan báo
Tin Mừng cho ngài và khuyến khích ngài đi đường ngay nẻo chính. Như thế, các
con đem lại sự trợ giúp vô giá cho một điều cơ bản, đó là ngăn ngừa những hành
động tàn bạo này tái diễn. Đám mây đen này cũng trở nên một thách đố đối với
những người trẻ yêu mến Chúa Giêsu và Hội Thánh của Người, bởi vì đóng góp của
người trẻ có thể là điều quan trọng để chữa lành vết thương này nếu họ dùng khả
năng của mình để canh tân, thôi thúc, để đòi hỏi phải nhất quán và làm chứng,
để lại ước mơ và sáng tạo.

101. Đây không phải là tội lỗi duy nhất của
các thành viên trong Hội Thánh, mà lịch sử của Hội Thánh đã từng có bóng tối.
Tội lỗi của chúng ta phơi bày trước mắt mọi người; tội lỗi ấy phản ánh nơi
những nếp nhăn trên khuôn mặt ngàn năm của Hội Thánh, là Mẹ và Thầy chúng ta, một
cách thật nhẫn tâm. Thật vậy, từ hai ngàn năm qua, Hội Thánh vẫn bước đi đang
khi chia sẻ “niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và nỗi thống khổ của con người”
[57[. Và Hội Thánh bước đi như mình là thế, mà chẳng cần phải giải phẫu thẩm
mỹ. Hội Thánh không sợ cho mọi người thấy tội lỗi của các thành viên của mình,
tội lỗi mà đôi khi một số người cố gắng che đậy, trước ánh sáng rực rỡ của Lời
Phúc âm, là Lời rửa sạch và thanh luyện. Hội Thánh cũng không ngừng hổ thẹn lặp
đi lặp lại mỗi ngày: “Lạy Chúa, xin thương con theo lượng từ bi Chúa… Tội lỗi
con luôn ở trước mặt con” (Tv
51,3,5). Nhưng chúng ta hãy nhớ rằng người ta không được bỏ rơi Mẹ mình khi Mẹ
đang bị thương, mà phải ở bên cạnh Mẹ, để Mẹ tìm lại được sức mạnh và khả năng
luôn bắt đầu lại.

102. Giữa tấn bi kịch làm cho tâm hồn chúng ta
bị tổn thương này, “Chúa Giêsu, Đấng không bao giờ bỏ rơi Hội thánh của
Người, sẽ ban cho Hội thánh sức mạnh và những công cụ để Hội Thánh bước đi
trên con đường mới” [58]. Như thế, thời điểm khó khăn này, “với sự giúp đỡ quý
báu của giới trẻ, có thể thực sự là cơ hội để thực hiện một cuộc cải cách
có tầm vóc lịch sử” [59], để đi vào một Lễ Hiện Xuống mới và khai mở một
giai đoạn thanh luyện và thay đổi, đem lại cho Hội Thánh nét trẻ trung mới. Các
bạn trẻ sẽ càng giúp ích nhiều hơn nếu họ thực tâm cảm nhận rằng mình thuộc về
“đoàn Dân thánh thiện và kiên trung của Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần trợ
lực và làm cho sống động”, vì “chính Dân thánh này của Thiên Chúa sẽ giải thoát
chúng ta khỏi tai hoạ của tinh thần giáo sĩ trị, vốn là mảnh đất màu mỡ cho tất
cả những điều ghê tởm ấy” [60].

Một lối thoát

103. Trong chương này, tôi đã dừng lại để nhìn
thực tế của giới trẻ trong thế giới ngày nay. Một số khía cạnh khác sẽ được nói
đến trong các chương sau. Như đã nói, tôi không định xem xét toàn bộ vấn đề qua
phân tích này. Tôi khuyến khích các cộng đoàn trân trọng và nghiêm túc xem xét
hoàn cảnh của giới trẻ tại nơi mình sống, để có thể phân định được đâu là những
đường hướng mục vụ thích hợp nhất. Tuy vậy, tôi không muốn kết thúc chương này
mà không ngỏ lời với mỗi người trong các bạn trẻ.

104. Cha muốn nhắc lại với con tin vui mà
chúng ta nhận được vào buổi sáng Phục Sinh: đó là, trong mọi hoàn cảnh khó khăn
và đau thương mà chúng ta đã nói đến, vẫn có một lối thoát. Chẳng hạn, đúng là
thế giới kỹ thuật số có thể đẩy con vào nguy cơ của sự khép kín cô lập và lạc
thú trống rỗng. Nhưng con đừng quên rằng cũng có những người trẻ sáng tạo và có
khi rất giỏi trong môi trường ấy. Đó là trường hợp của Đấng đáng kính Carlo
Acutis.

105. Carlo biết rất rõ rằng những cơ chế truyền
thông, quảng cáo và mạng xã hội ấy có thể được dùng để biến chúng ta thành
những con người uể oải, lệ thuộc vào chủ nghĩa tiêu thụ và những món hàng mới
mà chúng ta có thể mua sắm, bị ám ảnh về thời gian rảnh rỗi và bị giam hãm
trong những điều tiêu cực. Nhưng Carlo biết cách sử dụng những công nghệ thông
tin mới để truyền đạt Tin Mừng, để truyền thông các giá trị và vẻ đẹp.

106. Carlo đã không bị sập bẫy. Anh thấy rằng
nhiều bạn trẻ, mặc dù tỏ ra mình khác với người khác, thực sự cuối cùng rồi
cũng giống nhau; khi chạy theo những gì mà những kẻ có thế lực áp đặt cho họ
qua những cơ chế của chủ nghĩa tiêu thụ và giải trí. Thế nên họ không phát huy
được những ơn huệ mà Chúa đã ban; không cống hiến cho thế giới những tài năng
rất riêng tư và độc đáo mà Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người. Thế là, Carlo nói:
“ai cũng được sinh ra như là bản gốc, nhưng nhiều người lại chết đi như những
bản sao”. Đừng để điều này xảy ra với con!

107. Đừng để người ta cướp mất niềm hy vọng và
niềm vui của con, đừng để họ làm cho con lệ thuộc vào ma tuý và sử dụng con như
nô lệ phục vụ lợi ích của họ. Con hãy dám “là mình” hơn nữa, vì nhân vị của con
thì quan trọng hơn bất cứ gì khác. Của cải hay ngoại hình chẳng ích gì cho con.
Con có thể trở thành người mà Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo nên con, biết con là
thế, nếu con nhận ra rằng con được mời gọi vươn lên. Con hãy cầu khẩn Chúa
Thánh Thần và tin tưởng tiến về mục tiêu cao cả là nên thánh. Như thế, con sẽ
không trở thành một bản sao. Con sẽ hoàn toàn là chính mình.

108. Để được như vậy, con cần ý thức điều căn
bản này: sống tuổi trẻ, không chỉ là đi tìm những thú vui thoáng qua và những
thành công hời hợt. Để cho tuổi trẻ đạt được mục đích của nó trong cuộc đời của
con, thì đó phải là một thời gian của quảng đại cho đi, chân thành cống hiến,
của những hy sinh gian khổ nhưng sinh hoa trái thật phong phú. Như một thi sĩ
đã viết:

“Để tìm lại điều tôi đã tìm
lại được,

trước hết tôi phải mất đi
điều mà tôi đã đánh mất,

để có được cái tôi đã từng
sở hữu,

tôi phải chấp nhận điều tôi
đã chấp nhận,

Để ngày nay biết yêu thương,

tôi đã phải chịu thương đau,

tôi nghĩ đau khổ vì những gì
mình đã đau khổ là điều hay

tôi nghĩ khóc cho những gì
mình đã khóc là điều hay

Vì cuối cùng, tôi nghiệm ra
rằng

ta chỉ thực sự vui hưởng
được niềm vui đã có

khi đã biết đau khổ vì nó.

Cuối cùng, tôi hiểu rằng

nụ hoa trên cành cây

chỉ sống được nhờ những gì
vùi chôn trong lòng đất”
[61]     

109. Nếu con còn trẻ mà lại cảm thấy yếu đuối,
mệt mỏi hoặc thất vọng, hãy xin Chúa Giêsu đổi mới con. Với Người, niềm hy vọng
chẳng bao giờ thiếu. Con cũng có thể làm thế nếu con thấy mình đắm chìm trong
tật xấu, thói quen xấu, ích kỷ hoặc thú vui không lành mạnh. Chúa Giêsu tràn
đầy sức sống muốn giúp con sống tuổi trẻ thật đáng sống. Như thế, con sẽ không
tước mất của thế giới phần đóng góp mà chỉ mình con mới có thể đem đến, với tất
cả nét độc đáo của riêng con.

110. Tuy nhiên, cha cũng muốn nhắc con nhớ
rằng “khi chúng ta sống cô lập, xa cách người khác, thật khó để chúng ta chiến
đấu chống lại nhục dục, chống lại các cạm bẫy, các cám dỗ của ma quỷ, và tính
ích kỷ của thế gian. Bị tấn công dồn dập bởi quá nhiều lực lôi kéo, nếu chúng
ta quá cô độc, ta sẽ dễ mất cảm thức về thực tại và sự trong sáng nội tâm, và
dễ dàng đầu hàng” [62]. Điều này đặc biệt đúng đối với người trẻ, bởi vì khi
hiệp nhất với nhau các con sẽ có một sức mạnh thật kỳ diệu. Khi các con nhiệt
tình sống đời sống cộng đoàn, các con sẽ có khả năng hy sinh lớn lao cho người
khác và cho cộng đồng. Trái lại, sự cô lập làm cho các con yếu đi và dễ rơi vào
những xấu xa tồi tệ nhất của thời đại chúng ta.

 

CHƯƠNG BỐN

LỜI LOAN BÁO TUYỆT VỜI CHO
MỌI NGƯỜI TRẺ

111. Vượt trên hết mọi tình huống, giờ đây cha
muốn nói với tất cả các con điều quan trọng, ưu tiên hàng đầu, điều không bao
giờ được bỏ qua. Đó là một lời loan báo bao gồm ba chân lý trọng đại mà tất cả
chúng ta cần luôn lắng nghe, nhiều lần.

Thiên Chúa là Tình Yêu

112. Trước hết, cha muốn nói với mỗi người
chúng con về chân lý đầu tiên: “Thiên Chúa yêu con”. Nếu con đã từng nghe rồi,
không quan trọng, cha chỉ muốn nhắc con nhớ rằng: Thiên Chúa yêu con. Con đừng
bao giờ nghi ngờ điều đó, cho dù bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời con.
Trong bất cứ cảnh huống nào, con cũng được Thiên Chúa yêu thương vô tận.

113. Có lẽ kinh nghiệm về tình phụ tử mà con
đã trải qua không mấy tốt đẹp, có thể người cha trần thế của con đã đi xa và
vắng bóng, hoặc cha của con là một người thống trị và chiếm hữu; hay đơn giản
là một người mà con không cần đến. Cha không biết. Nhưng người cha mà cha xác
quyết nói với con đây, là một người cha mà con có thể an tâm lao vào vòng tay
của Ngài, đó là Cha trên trời, là Thiên Chúa, là Đấng đã ban sự sống cho con và
tiếp tục trao ban trong mọi lúc. Ngài chắc chắn sẽ nâng đỡ con và đồng thời, con
sẽ cảm thấy Ngài hoàn toàn tôn trọng tự do của con.

114. Trong Lời Chúa, chúng ta thấy có rất nhiều
đoạn diễn tả tình yêu của Ngài. Chính việc Ngài biểu lộ tình yêu trong nhiều
cách thức khác nhau như thế là để tìm xem có cách nào, qua những lời đó, có thể
chạm đến tâm hồn con không. Chẳng hạn, đôi khi Ngài tỏ ra như những người cha
người mẹ thương mến chơi đùa với con cái mình: “Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng. Ta xử với
chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má”
(Hs 11,4 ).

Đôi khi lại sánh ví với tình yêu của các bà mẹ hết lòng hết dạ yêu thương
con mình, một tình yêu tận tâm can làm cho người mẹ không thể quên hay bỏ con
mình: “Có phụ nữ nào quên được đứa con
thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có
quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ
” (Is 49,15).

Thậm chí, Thiên Chúa còn tỏ ra như một người yêu thiết tha đến mức hoạ hình
người mình yêu trên lòng bàn tay để có thể luôn nhìn thấy khuôn mặt người ấy
trước mặt: “Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi
trong lòng bàn tay Ta”
(Is
49,16).

Những lần khác, Ngài nhấn mạnh đến tình yêu mạnh mẽ và bền vững của Ngài,
không gì có thể lay chuyển nổi: “Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình
nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng
chẳng chuyển lay” (Is 54,10).

Hoặc nói với chúng ta rằng từ muôn thuở chúng ta đã được Ngài chờ đợi, bởi
vì không phải tình cờ mà chúng ta có mặt trong thế giới này. Ngay cả trước khi
hiện hữu, chúng ta đã ở trong kế hoạch yêu thương của Ngài: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên
Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương”
(Gr
31,3).

Hoặc cho chúng ta biết rằng Ngài nhìn thấy nơi ta một vẻ đẹp mà không ai
khác có thể nhận ra: “Vì trước mắt Ta,
ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương”
(Is 43,4).

Hoặc giúp chúng ta khám phá ra rằng tình yêu của Ngài không buồn tẻ, nhưng
đầy niềm vui thanh khiết, luôn mới mẻ mỗi khi chúng ta để cho mình được Ngài
yêu thương: “Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi,
Chúa sẽ vui mừng hoan hỉ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì
ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng
” (Xp
3,17).

115. Đối với Chúa, con thực sự quý giá, con
không phải là vô nghĩa, đối với Ngài con thật quan trọng, bởi vì con là công
trình do tay Ngài làm ra. Vì thế Ngài quan tâm đến con và thương nhớ con. Con
phải tin vào “trí nhớ của Thiên Chúa: trí nhớ của Ngài không là một ‘ổ đĩa
cứng’ chỉ biết ghi nhận và lưu giữ tất cả dữ liệu của chúng ta, nhưng trí nhớ
của Ngài là một con tim dịu dàng thương cảm, vui mừng xoá đi hết mọi dấu vết
xấu xa của chúng ta”. [63] Ngài không muốn nhớ đến những sai hỏng của con, và
Ngài luôn luôn giúp con học được điều gì đó từ những vấp ngã của con. Bởi vì
Ngài yêu con. Hãy tìm một khoảng lặng ở với Chúa và để được Ngài yêu thương.
Hãy cố xua tan mọi tiếng ồn trong thâm tâm và buông mình một lúc trong vòng tay
yêu thương của Ngài.

116. Đây là một tình yêu “không áp đặt hay đè
bẹp, không loại trừ, không thờ ơ, một tình yêu không coi thường hay thống trị.
Đó là tình yêu của Chúa, tình yêu thường nhật, kín đáo và tôn trọng, một tình
yêu tự do và giải thoát, tình yêu chữa lành và nâng dậy. Đó là tình yêu của
Chúa, tình yêu đỡ nâng lên hơn là quật ngã, giao hoà hơn là cấm đoán, cho cơ
hội mới hơn là kết án, hướng đến tương lai hơn là quá khứ”. [64]

117. Khi Ngài yêu cầu con điều gì hoặc đơn
giản để con đối diện với những thách đố trong cuộc đời, đó là lúc Ngài mong con
để cho Ngài thúc đẩy con, động viên con, giúp con trưởng thành. Ngài không khó
chịu khi con nêu lên những nghi ngờ, nhưng Ngài ưu tư khi con không nói chuyện
với Ngài, khi con không mở lòng ra đối thoại chân thành với Ngài. Thánh Kinh kể
rằng ông Giacóp đã vật lộn với Thiên Chúa (x. St 32,25-31), nhưng điều ấy đã không làm cho ông rời xa đường
lối của Chúa. Thật ra, chính Ngài khuyên chúng ta: “Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận!” (Is 1,18). Tình yêu của Chúa chân thực và cụ thể đến nỗi nó ban cho
ta một mối quan hệ đầy đối thoại chân thành và hiệu quả. Cuối cùng, con hãy tìm
đến với vòng tay của Cha trên trời nơi khuôn mặt mến thương của các chứng nhân
can đảm của Ngài trên trần gian!

Đức Kitô cứu độ con

118. Chân lý thứ hai là Đức Kitô, vì yêu
thương, Người đã hiến thân mình cho đến chết để cứu độ con. Đôi tay Người dang
ra trên thập giá là dấu chỉ cao quý nhất của một tình bạn đi đến cùng: “Người yêu những kẻ thuộc về mình còn ở thế
gian, và Người yêu thương họ đến cùn
g” (Ga
13,1).

Thánh Phaolô đã khẳng định ngài sống tín thác vào tình yêu hiến dâng ấy:
“Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Ðấng đã
yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20).

119. Chúa Kitô, trên thập giá, đã cứu chúng ta
thoát khỏi tội lỗi, ngày nay, với chính quyền năng của sự tự hiến ấy, Ngài tiếp
tục cứu độ và chuộc tội chúng ta. Con hãy nhìn lên Thập giá của Người, hãy bám
chặt lấy Người, hãy để Người cứu con, bởi vì “những ai để mình được Người cứu
độ sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn”.
[65] Và nếu con phạm tội và lạc xa Người, Người sẽ lại đến nâng con dậy bằng
quyền năng Thập Giá của Người. Đừng bao giờ quên rằng “Người tha thứ bảy mươi
lần bảy. Hết lần này đến lần khác Người lại đến để vác chúng ta trên vai của
Người. Không ai có thể tước đi phẩm giá được ban cho chúng ta bởi tình yêu vô
hạn và bền vững này. Người cho phép chúng ta ngẩng cao đầu và bắt đầu lại, với
một sự dịu dàng không bao giờ làm chúng ta thất vọng nhưng luôn phục hồi lại
cho ta niềm vui”.[66]

120. Chúng ta “được cứu độ bởi Đức Giêsu: vì
Người yêu thương chúng ta và Người không thể làm gì khác hơn. Chúng ta có thể
làm bất cứ điều gì chống lại Người, nhưng Người yêu thương chúng ta và cứu
chúng ta. Bởi vì chỉ những gì được yêu mới có thể được cứu. Chỉ những gì được
ôm lấy mới có thể được biến đổi. Tình yêu của Chúa thì lớn hơn tất cả những mâu
thuẫn, những yếu đuối và những nhỏ nhen của chúng ta. Nhưng chính nhờ những mâu
thuẫn, những yếu đuối và nhỏ nhen của chúng ta mà Người muốn viết lại câu
chuyện tình yêu này. Người đã ôm lấy đứa con hoang đàng, đã ôm lấy Phêrô sau
khi ông chối Người và luôn ôm lấy chúng ta, luôn luôn, cả sau mỗi lần chúng ta
sa ngã để giúp chúng ta trỗi dậy và đứng vững trên đôi chân của mình. Bởi vì sự
sa ngã thật – các con hãy lưu ý điều này – sự sa ngã tệ hại nhất, sự sa ngã có thể
hủy diệt sự sống của chúng ta, là khi cứ trì trệ nằm ì dưới đất và không để ai
giúp mình đứng dậy”. [67]

121. Sự tha thứ và ơn cứu độ của Chúa không
phải là điều mà chúng ta có thể mua được hoặc đạt được bằng những việc làm hay
những nỗ lực của mình. Người tha thứ và giải thoát chúng ta cách vô cầu. Sự hy
sinh của Người trên thập giá thì lớn lao đến nỗi chúng ta không thể lấy gì đáp
đền mà chỉ có thể đón nhận với lòng biết ơn vô hạn và niềm vui mình được yêu
thương quá mức có thể tưởng tượng: “Ngài đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4,19).

122. Các bạn trẻ thân mến, các con được Chúa
rất yêu dấu, các con rất quý giá vì được cứu chuộc bằng máu châu báu của Đức
Kitô! Các con “là vô giá! Các con không phải là món đồ để bán đấu giá! Xin đừng
để mình bị ai mua bán, đừng để mình bị dụ dỗ, đừng để mình bị nô lệ hoá bởi các
hình thức thực dân ý thức hệ, nhồi nhét vào đầu các con những tư tưởng xa lạ để
rồi cuối cùng biến các con thành những kẻ nô lệ, nghiện ngập và cuộc đời hư
hỏng. Các con là vô giá: các con phải luôn nhắc đi nhắc lại điều này: tôi không
phải là món đồ để bán đấu giá, tôi vô giá. Tôi là người tự do, tôi là người tự
do! Các con hãy yêu chuộng sự tự do này, tự do mà Chúa Giêsu ban tặng”. [68]

123. Con hãy nhìn vào đôi tay dang rộng của
Đức Kitô chịu đóng đinh, hãy luôn để mình được cứu độ lần này đến lần khác. Và
khi con đi xưng thú tội lỗi của mình, con hãy vững tin vào lòng thương xót của
Chúa, vốn giải thoát con khỏi lỗi tội. Hãy chiêm ngắm Máu Người đổ ra với tình
yêu lớn lao như thế, và hãy để mình được tẩy sạch bởi máu ấy. Nhờ đó con sẽ có
thể được tái sinh luôn mãi.

Người đang sống!

124. Nhưng có một chân lý thứ ba, không thể
tách rời chân lý trước được: Người đang
sống!
Chúng ta cần luôn tự nhắc mình điều này, bởi vì chúng ta có nguy cơ
coi Chúa Giêsu Kitô chỉ như một mẫu gương trong quá khứ, như một kỷ niệm, như
một Đấng đã cứu chúng ta cách nay hai ngàn năm. Điều này không ích gì cho chúng
ta, vì nó sẽ để chúng ta cũ kỹ y như trước, nó sẽ không giải thoát chúng ta.
Đấng đổ đầy ân sủng của Người trên chúng ta, Đấng giải thoát chúng ta, Đấng
biến đổi chúng ta, Đấng chữa lành và an ủi chúng ta là Đấng đang sống. Người là
Đức Kitô Phục Sinh, tràn đầy sức sống siêu nhiên, mặc lấy ánh sáng vô hạn. Vì
thế Thánh Phaolô đã nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh
em thật hão huyền” (1 Cr 15,17).

125. Nếu như Người đang sống, thì quả thật
Người có thể hiện diện trong cuộc đời của con, ở mọi lúc, để ban ánh sáng chan
hoà trên cuộc sống con. Như vậy chúng ta sẽ không bao giờ còn cô đơn và bị bỏ
rơi nữa. Ngay cả khi mọi người bỏ đi, Người sẽ vẫn ở đó, như Người đã hứa:
“Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Người lấp đầy mọi sự bằng sự hiện diện vô hình của
Người, và bất cứ nơi nào con đến, Người sẽ chờ đợi con ở đó. Bởi vì không những
Người đã đến, mà còn đang đến và sẽ tiếp tục đến mỗi ngày để mời con tiến bước
đến một chân trời luôn mới mẻ.

126. Con hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu hạnh phúc,
tràn ngập niềm vui. Con hãy vui mừng với Người Bạn đã chiến thắng. Họ đã giết
Đấng thánh, Đấng công chính, Đấng vô tội, nhưng Người đã chiến thắng. Sự dữ
không có lời cuối cùng. Ngay cả trong cuộc đời của con, sự dữ cũng không có lời
cuối cùng, bởi vì Người Bạn của con yêu thương con và muốn chiến thắng trong
con. Đấng cứu độ của con đang sống.

127. Nếu Người đang sống, thì chắc chắn rằng
cuộc sống chúng ta có một nẻo đường hướng về sự thiện và những vất vả của chúng
ta sẽ không ra vô ích. Vậy thì chúng ta có thể chấm dứt phàn nàn và hướng về
phía trước, bởi vì người ta có thể luôn hướng về phía trước cùng với Người. Đây
là sự chắc chắn mà chúng ta có được. Đức Giêsu là Đấng hằng sống muôn đời. Nếu
chúng ta bám chặt lấy Người, chúng ta sẽ sống và sẽ an toàn vượt qua mọi đe doạ
chết chóc và bạo lực ẩn nấp dọc đường đi.

128. Mọi giải pháp khác đều yếu kém và tạm
thời. Có thể chúng hữu ích trong một thời gian ngắn, nhưng rồi chúng ta lại
thấy mình chơi vơi và cô độc trước bão tố của cuộc đời. Trái lại, với Người,
tâm hồn chúng ta được bám rễ vững chắc vào một sự an toàn sâu xa bền bỉ vượt
trên tất cả mọi sự. Thánh Phaolô nói ngài ước muốn được kết hợp với Đức Kitô để
“biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh” (Pl 3,10). Quyền năng đó cũng sẽ biểu lộ rất nhiều lần trong cuộc
đời của con, bởi vì Người đã đến để ban cho con được sống, “và sống dồi dào” (Ga 10,10).

129. Nếu con hết lòng trân quý vẻ đẹp của sứ
điệp này và để cho mình được Chúa gặp gỡ; nếu con để cho mình được Người yêu
thương và cứu độ; nếu con đi vào trong tình bằng hữu với Người và bắt đầu trò
chuyện với Đức Kitô hằng sống về những điều cụ thể trong cuộc đời con, thì đây
sẽ là một kinh nghiệm lớn lao, kinh nghiệm nền tảng nâng đỡ đời Kitô hữu của
con. Đây cũng là kinh nghiệm mà con có thể thông truyền cho các bạn trẻ khác.
Bởi vì “ngay từ khởi đầu của đời sống Kitô hữu không có một quyết định luân lý
hay một ý tưởng cao cả nào, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một biến cố, một Con
người, chính cuộc gặp gỡ này mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng
đi quyết định”.[69]

Thần Khí ban sự sống

130. Trong cả ba chân lý này – Thiên Chúa yêu con, Đức Kitô là Đấng cứu độ
con, Người đang sống
– chúng ta đều thấy có Chúa Cha và Chúa Giêsu. Ở đâu
có Chúa Cha và Chúa Giêsu, thì ở đó cũng có Chúa Thánh Thần. Chính Ngài là Đấng
chuẩn bị và khai mở các tâm hồn để người ta đón nhận sứ điệp này, chính Ngài
duy trì sống động niềm hy vọng ơn cứu độ này, chính Ngài sẽ giúp con lớn lên
trong niềm vui này nếu các con để cho Ngài hành động. Chúa Thánh Thần lấp đầy
con tim của Đức Kitô Phục sinh và từ đó phát sinh suối nguồn sự sống cho con.
Và khi con đón nhận Người, Chúa Thánh Thần làm cho con ngày càng đi sâu vào con
tim của Đức Kitô, để các con luôn được đầy tràn tình yêu, ánh sáng và sức mạnh
của Người.

131. Con hãy cầu khẩn Chúa Thánh Thần mỗi ngày
để không ngừng sống kinh nghiệm mới mẻ sứ điệp tuyệt vời này. Tại sao không?
Con không mất mát gì cả và Ngài có thể thay đổi cuộc đời con, soi sáng nó và
dẫn con đi một nẻo đường tốt đẹp hơn. Ngài không cắt mất của con sự gì, Ngài
không lấy đi điều gì của con, trái lại, Ngài giúp con tìm thấy điều con cần
theo cách tốt nhất. Con có cần tình yêu không? Con sẽ không tìm thấy nó trong
sự phóng đãng, trong việc sử dụng người khác, trong chiếm hữu hoặc thống trị
họ. Con sẽ tìm thấy tình yêu theo một cách thế nó làm cho con thật sự hạnh
phúc. Con đi tìm cảm xúc mãnh liệt ư? Con sẽ không có nó bằng cách tích lũy đồ
đạc vật chất, bằng cách tiêu xài tiền bạc, chạy theo những sự thế gian một cách
vô vọng. Các cảm xúc ấy sẽ đến bằng một cách thức tốt đẹp và thoả mãn hơn nhiều
nếu con để mình được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.

132. Con tìm kiếm đam mê ư? Như lời của một
bài thơ: hãy yêu đi! (hoặc hãy để cho mình được yêu!), bởi vì “không gì quan
trọng hơn là gặp được Thiên Chúa. Nói cách khác, hãy yêu Ngài một cách dứt
khoát và tuyệt đối. Con yêu cái gì, thì con sẽ nghĩ tưởng đến cái đó và cuối
cùng nó chi phối con tất cả mọi sự. Nó sẽ quyết định điều gì khiến con thức dậy
vào buổi sáng, điều gì con sẽ làm lúc hoàng hôn, con sẽ trải qua những ngày
cuối tuần như thế nào, con đọc gì, con biết gì, điều gì làm tim con tan vỡ và
điều gì khiến con tràn ngập niềm vui và lòng biết ơn. Hãy yêu đi! Hãy tiếp tục
yêu! Tất cả mọi sự sẽ khác” [70] Tình yêu này của Thiên Chúa, vốn có thể làm
chúng ta say mê cuộc sống, là điều có thể, nhờ Chúa Thánh Thần, bởi vì “tình
yêu Thiên Chúa đổ tràn vào tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đã được ban cho
chúng ta” (Rm 5,5).

133. Ngài là suối nguồn của tuổi trẻ theo
nghĩa tốt nhất. Vì ai tin tưởng vào Chúa thì “giống như cây trồng bên dòng
nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên
cành vẫn cứ xanh tươi” (Gr 17,8).
Trong khi “những thanh niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn” (Is 40,30), những người đặt niềm tin vào Chúa lại “được thêm sức
mạnh. Như thể chim bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi
mà chẳng chùn chân” (Is 40,31).

 

CHƯƠNG NĂM

NHỮNG NẺO ĐƯỜNG CỦA TUỔI TRẺ

134. Người ta sống trẻ trung như thế nào khi
để lời loan báo tuyệt vời của Phúc-âm khai sáng và biến đổi chúng ta? Đặt câu
hỏi như thế rất quan trọng, vì tuổi trẻ, còn gì tự hào hơn, là một hồng ân của
Thiên Chúa: “Tuổi trẻ là một ân sủng, một gia tài”. [71] Đó là một quà tặng mà
có thể chúng ta lãng phí một cách vô ích, hoặc có thể đón nhận với lòng biết ơn
và sống sung mãn.

135. Thiên Chúa là tác giả của tuổi trẻ và
Ngài hoạt động trong mỗi người trẻ. Đối với người trẻ, tuổi trẻ là một thời
gian được chúc phúc và là một phúc lành cho Hội Thánh và thế giới. Đó là một
niềm vui, một bài ca của hy vọng và một phúc lành. Trân quý tuổi trẻ nghĩa là
xem giai đoạn sống này như một khoảng thời gian quý giá chứ không như một quãng
chuyển tiếp mà người trẻ cảm thấy bị bị đẩy đến tuổi trưởng thành.

Thời mộng mơ và chọn lựa

136. Vào thời Chúa Giêsu, việc từ giã tuổi ấu
thơ là một bước chuyển tiếp đáng được mong đợi trong cuộc sống, đáng được tổ
chức ăn mừng. Vì thế, khi Chúa Giêsu cho một “bé gái” sống lại (Mc 5,39), Người đã để em bước thêm một
bước, làm cho em lớn lên và trở thành “thiếu nữ” (Mc 5,41). Khi Người nói với em: “Này cô bé, hãy trỗi dậy!” (Talità kum), cũng chính là lúc Người
làm cho em có trách nhiệm hơn với cuộc đời của em, mở ra cho em những cánh cửa
của tuổi trẻ.

137. “Tuổi trẻ, thời kỳ phát triển nhân
cách, mang dấu ấn của những ước mơ đang dần dần hình thành, nhờ những tương
quan ngày càng vững chắc và quân bình hơn, nhờ những nỗ lực và thử nghiệm,
nhờ những chọn lựa để từng bước lập kế hoạch cho cuộc đời mình. Vào giai
đoạn này trong đời, người trẻ được kêu gọi phóng mình đến tương lai, mà
không cắt đứt với nguồn cội của mình, được kêu gọi trở nên tự lập, nhưng
không cô độc”. [72]

138. Tình yêu của Thiên Chúa và mối tương quan
của chúng ta với Đức Kitô hằng sống không ngăn cản chúng ta mơ ước, không đòi
chúng ta phải thu hẹp chân trời của mình. Trái lại, tình yêu này thôi thúc
chúng ta, khuyến khích chúng ta, và hướng chúng ta đến một cuộc sống tốt hơn và
đẹp hơn. Phần nhiều khát vọng nơi con tim của người trẻ có thể được đúc kết nơi
chữ “khắc khoải”. Như Thánh Phaolô VI đã nói, “chính trong cảm giác không thoả
mãn mà các con kinh nghiệm […] có một yếu tố ánh sáng”.[73] Sự khắc khoải
không được thoả mãn, cùng với sự kinh ngạc về những điều mới lạ xuất hiện ở
chân trời, mở lối thúc đẩy họ bạo dạn đảm nhận cuộc đời mình và mang trách
nhiệm thực hiện một sứ vụ. Sự khắc khoải lành mạnh này, trước hết thức dậy
trong tuổi thanh xuân, vẫn là đặc trưng của mọi tâm hồn trẻ trung, sẵn sàng
cống hiến và cởi mở. Sự bình an nội tâm đích thực cùng tồn tại với cảm giác
không thoả mãn sâu xa này. Thánh Augustinô nói: “Lạy Chúa, Ngài đã dựng nên
chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con còn khắc khoải cho đến khi được nghỉ an
trong Chúa mà thôi”. [74]

139. Cách nay không lâu một người bạn hỏi tôi
nhìn thấy gì khi nghĩ đến một người trẻ. Câu trả lời của tôi là: “Tôi thấy một
cậu bé hoặc một cô bé đang tìm lối bước riêng của mình, cô cậu đó muốn đi bằng
đôi chân của mình, đối diện với thế giới và nhìn về chân trời với cặp mắt chan
chứa hy vọng, tràn đầy tương lai và cả ảo tưởng nữa. Người trẻ đi bằng đôi chân
của mình như người lớn, nhưng khác người lớn, người lớn giữ hai chân song song,
nhưng người trẻ luôn đặt một chân trước một chân sau, sẵn sàng để bước tới, để
nhảy. Người trẻ luôn lao về phía trước. Nói về những người trẻ nghĩa là nói về
lời hứa, về niềm vui. Những người trẻ thì dồi dào sinh lực, họ có khả năng nhìn
với niềm hy vọng. Một người trẻ là một lời hứa hẹn của sự sống, bởi họ có một
khả năng kiên cường nhất định; đủ điên rồ để có thể tự lừa dối mình, đồng thời
cũng có khả năng chữa lành sự vỡ mộng có thể xảy ra”. [75]

140. Một số người trẻ có lẽ chối từ giai đoạn
này của cuộc đời vì họ muốn tiếp tục là trẻ con, hoặc muốn “kéo dài vô thời
hạn tuổi niên thiếu và trì hoãn việc phải quyết định; như thế nỗi lo sợ trước
những gì là dứt khoát và vĩnh viễn đã tạo ra một tình trạng tê liệt
khiến họ không thể quyết định. Tuy nhiên, giới trẻ không thể sống lơ lửng
lâu được: đây là tuổi phải lựa chọn và chính điều này làm nên sự hấp
dẫn và cũng là nhiệm vụ lớn nhất của giới trẻ. Giới trẻ phải lấy quyết
định trong các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội, chính trị, nhưng họ cũng
phải lấy những quyết định khác, triệt để hơn, những quyết định mà
sẽ định đoạt hướng đi dứt khoát cho cuộc đời họ”. [76] Họ cũng đưa ra
những quyết định liên quan đến tình yêu, việc lựa chọn người bạn đời hoặc quyết
định về việc có những đứa con đầu tiên. Chúng ta sẽ đào sâu các chủ đề này trong
những chương cuối, dành riêng cho ơn gọi cá nhân và sự phân định.

141. Nhưng ngược lại với những ước mơ thôi
thúc các quyết định này, luôn “có những kêu than, chực bỏ cuộc đe doạ. Chúng ta
hãy để các điều ấy lại cho những môn đệ của ‘nữ thần kêu than’! […] đó là một
thần lừa dối, dẫn dụ con đi lầm đường lạc lối. Khi mọi sự dường như khựng lại
và trì trệ, khi những vấn đề cá nhân làm chúng ta bất an, khi các vấn đề xã hội
không tìm được câu trả lời thích đáng, thì bỏ cuộc không phải là điều tốt. Đức
Giêsu là con đường: hãy để Người lên ‘thuyền’ của chúng ta và cùng ra khơi với
Người! Người là Chúa! Người thay đổi cái nhìn cuộc sống của chúng ta. Niềm tin
vào Đức Giêsu dẫn đến một niềm hy vọng vượt xa hơn, một bảo đảm chắc chắn không
chỉ dựa trên các phẩm chất và tài năng của chúng ta, mà dựa trên Lời Chúa, trên
lời Người mời gọi. Đừng quá tính toán theo kiểu phàm nhân và đừng lo lắng xem
xét thực tế quanh các con có an toàn hay không. Hãy ra khơi, hãy ra khỏi chính
mình”. [77]

142. Chúng ta phải kiên trì theo đuổi con
đường thực hiện những giấc mơ của mình. Để được như thế, chúng ta phải cẩn thận
với một cám dỗ thường xuyên trêu ngươi, là sự lo âu. Lo âu có thể trở thành một
kẻ đại thù khi nó làm cho chúng ta đầu hàng vì không thấy kết quả ngay tức
khắc. Người ta chỉ đạt được những ước mơ đẹp nhất nhờ hy vọng, kiên nhẫn và dấn
thân, mà không nóng vội. Đồng thời, cũng không nên tự giam hãm trong sự lưỡng
lự, sợ rủi ro và phạm sai lầm. Đúng hơn chúng ta phải sợ mình sống mà như đã
chết vì tê liệt, thu mình trong vỏ ốc không muốn mạo hiểm, bởi vì chúng ta
không dấn thân hoặc sợ phạm sai lầm. Ngay cả khi sai lầm, con vẫn luôn có thể
trỗi dậy ngẩng cao đầu và bắt đầu lại, vì không ai có quyền cướp đi niềm hy
vọng của con.

143. Các bạn trẻ thân mến, tốt hơn hết các con
đừng đánh mất tuổi thanh xuân của mình, đừng ngắm nhìn cuộc sống từ ban công.
Các con đừng lẫn lộn hạnh phúc với chiếc ghế bành và đừng sống cả cuộc đời mình
trước cái màn hình. Đừng để mình rơi vào cảnh tượng thê thảm như của một chiếc
ôtô phế thải. Đừng như những chiếc xe nằm trong bãi đậu xe, nhưng hãy ước mơ
thoả chí và hãy đưa ra những quyết định. Các con hãy mạo hiểm, dù có thất bại.
Đừng tiếp tục sống với tâm hồn đã tê dại và đừng nhìn thế giới như những khách
du lịch. Hãy lên tiếng! Hãy xua tan những nỗi sợ khiến các con tê liệt, để
không trở thành những người trẻ như xác ướp. Hãy sống! Hãy dấn thân cho những
gì tốt nhất trong cuộc sống! Hãy mở các cánh cửa lồng ra và bay đi! Làm ơn,
đừng về hưu non các con nhé.

Khát khao sống và trải
nghiệm

144. Hướng về dự phóng tương lai mơ ước này
không có nghĩa là người trẻ hoàn toàn phóng mình về phía trước, bởi lẽ, cùng
lúc đó trong họ cũng có một ước muốn mãnh liệt sống cuộc sống hiện tại, muốn
tận dụng tối đa những cơ hội mà cuộc sống này đem lại. Thế giới này tràn ngập
vẻ đẹp! Làm sao chúng ta có thể coi thường những tặng phẩm của Thiên Chúa?

145. Ngược lại với những điều nhiều người
thường nghĩ, Chúa không muốn làm suy yếu ước muốn sống này. Nên nhắc lại những
gì mà một hiền nhân trong Cựu Ước đã dạy: “Con ơi, nếu có của, hãy làm cho đời
con được tốt đẹp […]. Con đừng từ chối không hưởng một ngày vui” (Hc 14,11.14). Thiên Chúa thật là Đấng
yêu thương con, Ngài muốn con hạnh phúc. Đó là lý do trong Thánh Kinh cũng có
lời khuyên này cho người trẻ: “Này bạn thanh niên, cứ vui hưởng tuổi xuân của
bạn, và làm cho tâm hồn được hạnh phúc trong những ngày còn trẻ. […] Hãy đẩy
lui sầu não khỏi tâm hồn” (Gv
11,9-10). Bởi vì Thiên Chúa “cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng” (1 Tm 6,17).

146. Làm sao người ta có thể biết ơn Thiên
Chúa nếu không biết tận hưởng những món quà nho nhỏ hằng ngày của Ngài, nếu
không biết dừng lại trước những điều đơn sơ và dễ thương mà họ gặp trên mỗi
bước đi? Bởi vì “không ai tệ hơn kẻ làm hại chính mình” (Hc 14,6). Điều quan trọng không phải là hưởng thụ vô độ, vui thú
bất tận, ngược lại, bởi vì điều này sẽ ngăn cản con sống cuộc sống hiện tại.
Điều quan trọng là biết mở mắt ra nhìn và dừng lại chốc lát để cảm nhận trọn
vẹn mọi món quà bé nhỏ của cuộc sống với lòng biết ơn.

147. Rõ ràng Lời Chúa mời con sống hiện tại,
chứ không chỉ chuẩn bị cho ngày mai: “Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày
mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34). Nhưng điều này không có nghĩa là lao mình vào một cuộc
sống phóng đãng vô trách nhiệm, vốn chỉ đưa tới sự trống rỗng và luôn bất mãn;
nhưng là sống trọn vẹn giây phút hiện tại, nhờ dùng các năng lực của mình cho
những điều tốt đẹp, nhờ biết vun đắp tình huynh đệ, nhờ học theo Đức Giêsu và
quý trọng những niềm vui bé nhỏ của cuộc sống như một quà tặng của tình yêu
Thiên Chúa.

148. Về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại rằng Đức
Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, khi bị giam cầm trong một trại tập
trung, đã không muốn những ngày sống của ngài chỉ là sự chờ đợi và mong mỏi một
tương lai được tự do. Ngài đã chọn “sống giây phút hiện tại, lấp đầy nó bằng
tình yêu”; và cách mà Ngài thực hiện đó là: “Tôi nắm lấy những cơ hội có được
mỗi ngày, để chu toàn những việc bình thường một cách phi thường”.[78] Trong
khi đấu tranh để thực hiện những ước mơ của mình, con hãy sống cách tròn đầy
ngày hôm nay, cho đi tất cả và lấp đầy tình yêu từng giây phút. Bởi vì thật sự
ngày hôm nay của tuổi trẻ của con có thể là ngày cuối cùng, và như thế rất đáng
nỗ lực để sống tuổi trẻ ấy với tất cả lòng khát khao và chiều sâu nhất có thể.

149. Điều này cũng có giá trị đối với những
lúc khó khăn, là những hoàn cảnh phải được sống đến tận cùng để có thể học được
thông điệp của chúng. Như các Giám mục Thụy Sĩ đã dạy: “Ngài ở đó, nơi chúng ta
nghĩ rằng Ngài đã bỏ rơi chúng ta, và chúng ta không hy vọng được cứu độ nữa.
Đó là một nghịch lý, nhưng đối với nhiều Kitô hữu, đau khổ và bóng tối, […]
lại trở thành những nơi gặp gỡ Thiên Chúa”. [70] Hơn nữa, khát vọng sống và
kinh nghiệm những điều mới mẻ đặc biệt liên quan đến nhiều người trẻ trong hoàn
cảnh khuyết tật về thể lý, tâm lý và giác quan. Mặc dù các bạn ấy không thể
luôn có những kinh nghiệm giống như các bạn cùng trang lứa, nhưng các bạn ấy
vẫn có những nguồn lực kỳ diệu, không thể tưởng, đôi khi phi thường. Đức Giêsu
lấp đầy các bạn ấy bằng những quà tặng khác, mà cộng đồng được mời gọi hãy biết
quý trọng, để các bạn ấy có thể khám phá kế hoạch yêu thương của Người dành cho
mỗi người trong họ.

Trong tình bạn với Đức Kitô

150. Dù con có sống và trải nghiệm đến đâu
chăng nữa, con cũng sẽ không bao giờ chạm đến ý nghĩa sâu xa nhất của tuổi trẻ,
con sẽ không nhận biết được tuổi trẻ đầy đủ nhất, nếu con không gặp Người Bạn
lớn mỗi ngày, nếu con không sống trong tình bạn với Đức Giêsu.

151. Tình bạn là một quà tặng của cuộc sống và
là một hồng ân của Thiên Chúa. Qua bạn bè, Chúa tinh luyện chúng ta và làm cho
chúng ta trưởng thành. Đồng thời, những người bạn trung thành, những người ở
bên ta trong những thời buổi khó khăn, đó cũng là phản ảnh tình thương của Chúa,
phản ảnh niềm an ủi và sự hiện diện yêu thương của Ngài. Có bạn bè chúng ta sẽ
học được biết cởi mở, hiểu biết, quan tâm đến người khác, đi ra khỏi cuộc sống
thoải mái tiện nghi và cô lập của chính mình, chia sẻ đời sống mình với người
khác. Bởi đó “không có gì đổi lấy được một người bạn trung thành” (Hc 6,15).

152. Tình bạn không phải là một mối quan hệ
nhất thời, tạm bợ, nhưng ổn định, bền vững, trung thành, chín muồi theo thời
gian. Đó là một mối tương quan cảm mến nối kết chúng ta lại với nhau, và đồng
thời đó cũng là một tình yêu quảng đại dẫn chúng ta đến việc tìm kiếm điều tốt
đẹp cho bạn bè. Mặc dù bạn hữu có thể rất khác nhau, nhưng luôn có một số điểm
chung khiến chúng ta cảm thấy gần gũi, thân tình để chia sẻ với lòng chân thành
và tin tưởng.

153. Tình bạn quan trọng đến nỗi chính Đức
Giêsu tự giới thiệu như một người bạn: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ,
nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga
15,15). Nhờ ân sủng Người ban cho chúng ta, mà chúng ta được nâng lên đến mức
chúng ta thật sự là bạn hữu của Người. Với cùng một tình yêu mà Người dành cho
chúng ta, chúng ta có thể yêu Người, lan toả tình yêu của Người cho những người
khác, với hy vọng là họ cũng sẽ tìm thấy chỗ đứng của họ trong cộng đồng bạn
hữu đã được Đức Giêsu Kitô thiết lập.[80] Và dù cho Người đã phục sinh đang
sống trong vinh phúc viên mãn, chúng ta cũng có thể cùng với Người, quảng đại
giúp xây dựng Vương quốc của Người trên trần gian này, trở nên những công cụ
của Người để mang sứ điệp, ánh sáng và nhất là tình yêu của Người đến cho những
người khác (x. Ga 15,16). Các môn đệ
đã lắng nghe lời mời gọi của Đức Giêsu để trở nên bạn hữu của Người. Đây là lời
mời gọi không hề áp chế họ, nhưng tế nhị mời gọi trong sự tự do: “Hãy đến mà
xem”, Người đã nói với họ, và họ “đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người
ngày hôm ấy” (Ga 1,39). Sau cuộc gặp
gỡ thân mật và bất ngờ đó, họ để lại tất cả mọi sự và đi với Người.

154. Tình bạn với Đức Giêsu thì bất khả phân
ly. Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta, mặc dù đôi khi có vẻ như Người giữ
thinh lặng. Khi chúng ta cần đến Người, Người tỏ mình ra cho chúng ta (x. Gr 29,14) và Người ở bên chúng ta trong
bất cứ nơi nào (x. Gs 1,9). Vì Người
không bao giờ phá vỡ giao ước [nên] Người yêu cầu chúng ta đừng bỏ Người: “Hãy
ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15, 4). Nhưng nếu chúng ta xa lánh Người, “Người vẫn một lòng
trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình” (2 Tm 2,13).

155. Với một người bạn, chúng ta có thể trò
chuyện và chia sẻ những điều sâu kín nhất. Cũng thế, với Đức Giêsu chúng ta có
thể đàm đạo với Người. Cầu nguyện là một thách đố và cũng là một cuộc phiêu
lưu. Và cuộc phiêu lưu thật là thú vị biết bao! Nó cho phép chúng ta biết Người
mỗi ngày một hơn, cho chúng ta đi vào tương giao sâu xa với Người và càng ngày
càng kết hợp bền chặt hơn với Người. Cầu nguyện cho phép chúng ta chia sẻ với
Người mọi điều xảy đến với mình và tín thác trong vòng tay của Người, đồng thời
cầu nguyện cũng cho chúng ta những giây phút thân tình quý giá, trong đó Đức
Giêsu trao ban sự sống của Người cho chúng ta. Khi cầu nguyện “chúng ta cởi mở
tất cả với Người”, chúng ta dành chỗ cho Người “để Người có thể hành động và có
thể bước vào và có thể chiến thắng”.[81]

156. Như vậy ta có thể đạt đến kinh nghiệm kết
hợp thường xuyên với Người, vượt trên tất cả những gì chúng ta có thể sống với
những người khác: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà Đức Kitô sống
trong tôi” (Gl 2,20). Đừng tước mất
khỏi tuổi trẻ của con tình bạn này. Có thể con sẽ cảm thấy Người ở bên cạnh
không chỉ khi cầu nguyện. Con sẽ nhận ra Người đồng hành với con trong mọi lúc.
Hãy thử khám phá Người và con sẽ có kinh nghiệm tuyệt vời là nhận ra rằng Người
luôn đồng hành với con. Đây là kinh nghiệm của các môn đệ đi Emmau đã trải qua
đang lúc họ hoang mang bước đi và trò chuyện, thì Chúa Giêsu hiện ra và “cùng
đi với họ” (Lc 24,15). Một vị thánh
nói rằng “Kitô giáo không phải là một tập hợp các chân lý phải tin, các luật lệ
phải giữ, các điều cấm đoán. Nhìn như thế làm ta chán ghét. Kitô giáo là một
Con Người, Người đã yêu tôi nhiều đến nỗi tôi phải yêu lại Người. Kitô giáo là
Đức Kitô”.[82]

157. Đức Giêsu có thể liên kết tất cả mọi
người trẻ của Hội Thánh lại với nhau trong một giấc mơ duy nhất, “một giấc mơ
vĩ đại và một giấc mơ có chỗ cho tất cả mọi người. Vì giấc mơ ấy mà Đức Giêsu
đã hiến mình trên thập giá và Thánh Thần đã được đổ tràn như hình lưỡi lửa ngày
lễ Ngũ Tuần nơi tâm hồn của những người nam và nữ, trong con tim mỗi người,
[…] Ngài đã mang lửa ấy trong hy vọng tìm được chỗ trong các tâm hồn, để từ
đó lớn lên và triển nở. Một giấc mơ, một giấc mơ mang tên Giêsu, được gieo vãi
từ Chúa Cha: Người là Thiên Chúa giống như Chúa Cha, được Chúa Cha sai đến với
niềm tin tưởng rằng Người sẽ lớn lên sẽ và sống trong mọi tâm hồn. Một giấc mơ
cụ thể, chính là một Ngôi vị, chảy tràn trong huyết quản của chúng ta, làm cho
lòng ta rộn rã nhảy mừng”. [83]

Lớn lên và trưởng thành

158. Nhiều người trẻ quan tâm đến thân thể
mình, tìm cách phát triển sức mạnh thể lý hoặc ngoại hình. Những người trẻ khác
thì cố gắng phát huy tài năng và kiến ​​thức của mình, và bằng cách đó họ cảm
thấy tự tin hơn. Một số người trẻ khác nhắm cao hơn, cố gắng dấn thân hơn và
tìm kiếm một sự phát triển tâm linh. Thánh Gioan nói: “Hỡi các bạn trẻ, tôi đã
viết cho anh em, vì anh em là những người mạnh mẽ, và Lời Thiên Chúa ở lại
trong anh em” (1 Ga 2,14). Tìm kiếm
Chúa, giữ Lời Người, tìm cách đáp Lời Người bằng chính đời sống của mình, lớn
lên trong các nhân đức, điều này làm cho tâm hồn của những người trẻ trở nên
mạnh mẽ. Vì vậy, cần phải giữ “kết nối” với Đức Giêsu, để được “kết hợp trực
tuyến” với Người, vì con sẽ không lớn lên trong hạnh phúc và thánh thiện chỉ
với sức mạnh và sự thông minh của mình. Giống như con lo lắng để không mất kết
nối Internet, hãy bảo đảm rằng con luôn kết nối với Chúa. Điều này có nghĩa là
không ngắt cuộc đối thoại với Chúa, nhưng lắng nghe Người, chia sẻ cho Người
nghe mọi chuyện của con, và khi con không biết rõ ràng con nên làm thì hãy hỏi
Người: “Lạy Chúa Giêsu, ở địa vị con, Người sẽ làm gì?” [84]

159. Cha hy vọng con quý trọng bản thân mình,
thật nghiêm túc với chính mình đến mức cố gắng phát triển bản thân về đời sống
thiêng liêng. Ngoài nhiệt huyết đặc trưng của tuổi trẻ, còn có vẻ đẹp của việc
tìm kiếm “sự công chính, đức tin, đức ái, bình an” (2 Tm 2,22). Điều này không có nghĩa là phải đánh mất đi tính hồn
nhiên, tươi trẻ, nhiệt thành, dịu dàng. Bởi lẽ trở nên người trưởng thành không
có nghĩa là phải từ bỏ các giá trị tốt đẹp nhất của giai đoạn này trong đời
sống. Nếu không, một ngày nào đó, Chúa có thể quở trách con: “Ta nhớ lại lòng
trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành
hôn, lúc ngươi theo Ta trong sa mạc” (Gr
2, 2).

160. Mặt khác, ngay cả một người trưởng thành
cũng phải chín chắn hơn mà không đánh mất các giá trị của tuổi trẻ. Bởi vì thật
ra, mỗi giai đoạn của cuộc đời là một ân sủng thường hằng, chất chứa một giá
trị vững bền của nó. Một trải nghiệm tuổi trẻ được sống tốt đẹp luôn còn đó như
một kinh nghiệm nội tâm. Và trong đời sống trưởng thành, kinh nghiệm ấy thấm
nhập sâu sắc hơn và tiếp tục trổ sinh hoa trái. Nếu đặc trưng của người trẻ là
họ cảm thấy bị lôi cuốn bởi chân trời vô hạn mở ra và bắt đầu, [85] thì nơi
người trưởng thành có thể có nguy cơ là, với những sự an toàn và các tiện nghi
của mình, ngày càng kéo lùi xa chân trời này và đánh mất giá trị của tuổi trẻ
mình. Thay vào đó, lẽ ra phải có điều ngược lại. Tức là, khi trưởng thành, càng
già đi và đời sống của mình càng được quy củ, chúng ta vẫn không mất đi sự hấp
dẫn, càng mở rộng hơn nữa trước thực tại khôn cùng. Trong mọi giây phút của đời
sống, chúng ta có thể làm mới lại và gia tăng sức trẻ của mình. Khi tôi bắt đầu
sứ vụ Giáo hoàng của mình, Chúa đã mở rộng tầm nhìn của tôi và ban cho tôi một
nét trẻ trung mới. Điều tương tự có thể xảy ra với một cặp vợ chồng đã kết hôn
nhiều năm, hoặc với một đan sĩ trong đan viện của mình. Có những điều cần “ổn
định” theo thời gian, nhưng chúng ta có thể trưởng thành hơn mỗi ngày cùng với
một ngọn lửa luôn được thắp mới, với một con tim luôn trẻ trung.

161. Già đi hơn có nghĩa là giữ gìn và nâng
niu những gì quý giá nhất mà tuổi trẻ mang lại cho con, nhưng đồng thời cũng có
nghĩa là mở ra để thanh luyện điều không tốt và đón nhận những hồng ân mới của
Thiên Chúa, để phát triển những gì có giá trị. Đôi khi, những mặc cảm tự ti có
thể làm con không muốn nhìn thấy khuyết điểm và những yếu nhược của mình, và
như thế là con bị cản trở, không tăng trưởng và trưởng thành. Tốt hơn hết, con
hãy để cho Chúa yêu thương mình, Ngài yêu con đúng với con người thật của con,
Ngài quý mến con và tôn trọng con, nhưng Ngài cũng không ngừng ban thêm nhiều
hơn nữa cho con. Chẳng hạn như tương quan tình bạn với Ngài sâu đậm hơn, nhiệt
thành hơn trong cầu nguyện, đói khát Lời Chúa nhiều hơn, khao khát lãnh nhận
Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể nhiều hơn, ước muốn sống Tin Mừng của Người
hơn, có nhiều sức mạnh nội tâm hơn, nhiều bình an và niềm vui thiêng liêng hơn.

162. Nhưng cha nhắc con nhớ rằng con sẽ không
nên thánh và trở nên viên mãn bằng cách trở thành bản sao của người khác. Noi
gương các thánh không có nghĩa là sao chép cách thức sống thánh của các ngài:
“Có một số chứng tá có thể hữu ích và gợi hứng, nhưng không phải để chúng ta
sao chép lại, vì điều đó có thể đưa ta đi lạc khỏi nẻo đường riêng mà Thiên
Chúa có ý dành cho ta”. [86] Con phải khám phá ra mình là ai và phát triển nẻo
đường nên thánh của riêng của mình, khác với những gì người khác nói và nghĩ.
Nên thánh có nghĩa là trở nên chính mình cách đầy đủ nhất, là trở nên điều mà
Thiên Chúa đã muốn mơ ước và tạo dựng, chứ không phải một bản sao. Đời sống của
con phải là một thúc đẩy mang tính tiên tri, gợi hứng cho những người khác, ghi
dấu ấn nơi thế giới này, đó là dấu ấn độc đáo mà chỉ một mình con mới có thể để
lại. Ngược lại, nếu con chỉ sao chép người khác, con sẽ tước mất khỏi trái đất
và cả bầu trời này một điều mà không ai khác có thể thay thế con cống hiến
được. Cha nhớ Thánh Gioan Thánh Giá, trong tác phẩm Khúc Linh Ca của ngài, đã viết rằng mỗi người phải rút ra những lợi
ích từ lời khuyên nhủ thiêng liêng của ngài “theo cách riêng của mình”,[87] vì
chính Thiên Chúa muốn bày tỏ ân sủng của Ngài “cho mỗi người mỗi cách”. [88]

Những nẻo đường huynh đệ

163. Sự trưởng thành tâm linh của con được thể
hiện trước hết trong tình huynh đệ, quảng đại và tình yêu thương xót. Thánh
Phaolô đã nói: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi
người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối
với anh em vậy” (1 Tx 3,12). Cầu mong
con sẽ sống mỗi ngày một hơn “sự xuất thần” ngây ngất khi đi ra khỏi chính mình
để tìm kiếm điều tốt đẹp cho những người khác, ngay cả dù phải hy sinh mạng
sống mình.

164. Một cuộc gặp gỡ Thiên Chúa được gọi là
“xuất thần”, vì nó kéo chúng ta ra khỏi chính mình và nâng chúng ta lên, đưa
chúng ta vào tình yêu và vẻ đẹp của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta cũng có thể
“xuất thần” khi ra khỏi chính mình để nhận ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong mỗi con
người, phẩm giá của họ, sự vĩ đại của họ trong tư cách như là hình ảnh của
Thiên Chúa và người con của Cha trên trời. Chúa Thánh Thần muốn thúc đẩy chúng
ta ra khỏi chính mình, đón nhận những người khác trong yêu thương và tìm kiếm
điều tốt đẹp cho họ. Vì vậy, tốt nhất là cùng nhau sống đức tin và diễn tả tình
yêu của chúng ta trong đời sống cộng đoàn, qua việc chia sẻ yêu thương với các
bạn trẻ khác, chia sẻ thời giờ, đức tin và các lo âu của mình. Hội Thánh cung
cấp nhiều không gian khác nhau để sống đức tin trong cộng đoàn, vì khi cùng làm
với nhau mọi sự sẽ dễ dàng hơn.

165. Những vết thương mà các con nhận được có
thể cám dỗ các con rút lui sống cô lập, co cụm lại với chính mình, nuôi những
oán hờn, nhưng đừng bao giờ ngừng lắng nghe lời mời gọi tha thứ của Chúa. Như
các Giám mục Rwanda đã dạy rất hay, “để hoà giải với người khác trước hết đòi
hỏi bạn phải khám phá người ấy là hình ảnh rạng ngời của Thiên Chúa. […]
Trong cái nhìn ấy, điều quan trọng là phải phân biệt tội nhân với tội lỗi của
họ, và với hành vi phạm tội của họ, để đi đến hoà giải đích thực. Điều này có
nghĩa là bạn ghét sự xấu xa mà người khác gây ra cho bạn, nhưng bạn vẫn tiếp
tục yêu thương họ bởi vì bạn nhận ra sự yếu đuối của họ và nhìn thấy hình ảnh
của Thiên Chúa trong họ” [89].

166. Đôi khi tất cả năng lực, ước mơ và nhiệt
huyết của tuổi trẻ bị tan biến vì chúng ta bị cám dỗ khép lại trong chính mình,
trong những vấn đề của mình, trong những cảm giác bị tổn thương, trong những
lời phàn nàn và trong cuộc sống tiện nghi. Đừng để điều này xảy ra với con, bởi
vì con sẽ già đi trước tuổi. Mỗi lứa tuổi đều có vẻ đẹp riêng của nó, và tuổi
trẻ không thể thiếu hoài bão chung, có thể cùng nhau chia sẻ mơ ước, những chân
trời bao la mà chúng ta có thể cùng nhau chiêm nghiệm.

167. Thiên Chúa yêu thích niềm vui của người
trẻ và Ngài mời họ trước hết hướng đến niềm vui sống tình hiệp thông huynh đệ,
hướng đến cảm nhận niềm vui cao vời của người biết chia sẻ, vì “cho đi thì vui
hơn là nhận lại” (Cv 20,35 ) và
“Thiên Chúa yêu thích những ai vui vẻ dâng hiến” (2 Cr 9,7). Tình huynh đệ gia tăng gấp bội khả năng của chúng ta
kinh nghiệm niềm vui, bởi vì nó làm cho chúng ta vui vì điều tốt đẹp của người
khác. “Hãy vui với người vui” (Rm
12,15). Ước gì sự hồn nhiên và những xung năng của tuổi trẻ chúng con ngày càng
được biến đổi hơn nữa thành tình yêu thương huynh đệ, tươi trẻ, luôn sẵn sàng
tha thứ, quảng đại, khao khát xây dựng cộng đồng. Một câu ngạn ngữ châu Phi
nói: “Nếu bạn muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu bạn muốn đi xa, hãy đi với
những người khác”. Chúng ta đừng để mình bị đánh cắp mất tình huynh đệ.

Những người trẻ dấn thân

168. Trong thực tế, trước một thế giới đầy bạo
lực và ích kỷ, người trẻ đôi khi có nguy cơ khép kín mình vào các nhóm nhỏ, và
như thế họ tránh xa những thách đố của đời sống trong xã hội, và thế giới rộng
lớn, vốn khiêu khích và nhiều nhu cầu. Họ có cảm tưởng mình đang sống tình
huynh đệ, nhưng có thể nhóm của họ chỉ là một sự nối dài chính cái tôi của họ.
Càng nghiêm trọng hơn nếu họ nghĩ ơn gọi giáo dân chỉ như là một việc phục vụ
bên trong Hội Thánh (đọc sách, giúp lễ, giáo lý viên…), mà quên rằng ơn gọi
giáo dân trước hết là đức ái trong gia đình và đức ái trong khung cảnh xã hội
hoặc chính trị. Đó là một dấn thân cụ thể khởi đi từ đức tin để xây dựng một xã
hội mới, là sống giữa thế giới và xã hội để Phúc âm hoá những hoàn cảnh khác
nhau, để phát triển hoà bình, sự chung sống, công lý, nhân quyền, lòng nhân từ,
và như thế mở rộng Nước Chúa trên trần gian.

169. Cha đề nghị các bạn trẻ hãy vượt ra ngoài
các nhóm thân hữu và xây dựng “tình bằng hữu trong xã hội, tìm kiếm thiện ích
chung. Hiềm thù xã hội thì dẫn tới hủy diệt. Các gia đình bị hủy diệt bởi hiềm
thù. Các quốc gia bị hủy diệt bởi hiềm thù. Thế giới bị hủy diệt bởi hiềm thù.
Và sự hiềm thù lớn nhất chính là chiến tranh. Ngày nay chúng ta thấy thế giới
đang tự tàn phá bằng chiến tranh. Bởi vì họ không thể ngồi lại để đàm phán.
[…] Các con phải là những người có khả năng tạo ra tình bằng hữu trong xã
hội”. [90] Đó là điều không dễ dàng, cần phải luôn từ bỏ một điều gì đó, cần
phải thương lượng, nhưng nếu chúng ta làm thế vì nghĩ tới lợi ích của mọi
người, có thể chúng ta sẽ thực hiện được kinh nghiệm tuyệt vời về việc bỏ qua
một bên những khác biệt để cùng nhau đấu tranh cho một mục đích chung. Nếu chúng
ta tìm được những điểm tương đồng giữa rất nhiều khác biệt, trong nỗ lực dấn
thân và đôi khi vất vả để bắc những nhịp cầu, để kiến tạo một nền hoà bình tốt
đẹp cho mọi người, thì đây là phép lạ của nền văn hoá gặp gỡ mà những người trẻ
có thể mạnh dạn và say mê sống cho nó.

170. Thượng Hội đồng nhìn nhận rằng “Dấn thân
xã hội là một nét đặc thù của giới trẻ hôm nay, dù với những cách thức
khác so với các thế hệ trước đây. Tuy có một số sống dửng dưng, nhưng vẫn có
nhiều người trẻ sẵn sàng đáp lại lời kêu gọi hoạt động thiện nguyện,
trở nên công dân tích cực và sống tình liên đới trong xã hội: điều quan
trọng là chúng ta phải đồng hành và khuyến khích người trẻ phát triển
tài năng, năng lực và óc sáng tạo và thúc đẩy họ gánh vác trách nhiệm.
Dấn thân xã hội và tiếp xúc trực tiếp với người nghèo là một cơ hội quan
trọng để người trẻ khám phá hay đào sâu đức tin và để họ phân định ơn gọi
của mình. […] Cũng có người đã ghi nhận thái độ sẵn sàng dấn thân
vào lĩnh vực chính trị vì lợi ích chung nơi người trẻ”. [91]

171. Ngày nay, tạ ơn Chúa, nhiều nhóm trẻ của
các giáo xứ, các trường học, các phong trào hoặc các nhóm sinh viên đại học
thường đi ra ngoài gặp gỡ thăm viếng những người già và những người bệnh, hoặc
thăm viếng các khu xóm nghèo, hay là cùng nhau giúp đỡ những người túng thiếu
trong những “buổi tối từ thiện”. Qua những hoạt động này, họ thường nhận ra
mình nhận nhiều hơn là cho, bởi vì ta học được khôn ngoan và được trưởng thành
rất nhiều khi ta dám tiếp chạm đến nỗi đau của người khác. Hơn thế nữa, nơi
những người nghèo có một sự khôn ngoan ẩn giấu, và họ chỉ bằng vài lời nói đơn
sơ có thể giúp chúng ta khám phá những giá trị bất ngờ.

172. Những người trẻ khác tham gia vào các
chương trình xã hội xây dựng nhà cho người vô gia cư, hoặc cải tạo các khu vực
bị ô nhiễm hay quyên góp giúp đỡ những người túng quẫn. Sẽ tốt hơn nếu những
góp sức chung này không hoạt động rời rạc nhưng được tổ chức ổn định, với các
mục tiêu rõ ràng hướng tới một hoạt động liên tục và càng ngày có hiệu quả hơn.
Các sinh viên đại học có thể kết hợp với nhau theo liên ngành để ứng dụng những
kiến ​​thức của họ vào việc giải quyết các vấn đề xã hội, và trong nhiệm vụ
này, họ có thể làm việc sát cánh với những người trẻ của các Hội Thánh hoặc tôn
giáo khác.

173. Như trong phép lạ của Chúa Giêsu, những
chiếc bánh và những con cá của người trẻ có thể được hoá ra nhiều (x. Ga 6,4-13). Như trong dụ ngôn, các hạt
giống bé nhỏ của những người trẻ có thể biến thành cây to sinh hoa kết quả cho
mùa bội thu (x. Mt 13,23.31-32). Tất
cả những điều này được phát khởi từ nguồn mạch sống động của Thánh Thể, trong
đó bánh và rượu của chúng ta được biến đổi cho ta sự sống đời đời. Người trẻ
được trao phó một nhiệm vụ lớn lao và khó khăn. Với niềm tin vào Đấng Phục
Sinh, các bạn có thể đương đầu với thách đố ấy trong sáng tạo và trong hy vọng,
luôn sẵn sàng phục vụ, như những gia nhân trong tiệc cưới kia, là những người
cộng tác vào dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu chính họ cũng không ngờ. Họ chỉ làm
theo lời Đức Mẹ căn dặn: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Lòng thương xót, sự sáng tạo và
niềm hy vọng làm đời sống triển nở.

174. Cha muốn khuyến khích con dấn thân vào
nhiệm vụ này, bởi vì cha biết rằng “quả tim của các con, quả tim trẻ trung,
muốn xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Cha đã theo dõi tin tức thế giới và Cha
thấy rằng nhiều người trẻ ở nhiều nơi trên thế giới đã xuống đường để bày tỏ
ước muốn có một nền văn minh công bằng và huynh đệ hơn. Những người trẻ xuống đường.
Đó là những người trẻ muốn trở thành những tác nhân đem lại sự thay đổi. Xin
đừng đùn đẩy cho những người khác làm tác nhân của sự thay đổi! Chính các con
là những người nắm giữ tương lai! Qua các con tương lai bước vào thế giới. Cha
cũng xin các con hãy trở thành những tác nhân của sự thay đổi này. Hãy tiếp tục
vượt qua thái độ thờ ơ, bằng cách đưa ra câu trả lời của Kitô giáo cho các vấn
đề chính trị và xã hội, tại các vùng khác nhau trên thế giới. Cha xin các con
hãy trở thành những người kiến tạo thế giới, các con hãy làm việc hết mình cho
một thế giới tốt đẹp hơn. Các bạn trẻ thân mến, cha xin các con đừng bàng quan
nhìn cuộc sống mà hãy nhập cuộc. Đức Giêsu không hề là kẻ bàng quan, Người đã
nhập cuộc; đừng bàng quan nhìn cuộc sống từ xa xa, hãy bước vào cuộc sống như
Đức Giêsu đã làm”.[92] Nhưng trên hết, bằng cách này hay cách khác, các con hãy
đấu tranh cho công ích, hãy phục vụ người nghèo, hãy là những tác nhân chính
của cuộc cách mạng bác ái và phục vụ, có khả năng kháng cự lại căn bệnh cá nhân
chủ nghĩa tiêu thụ và hời hợt.

Những nhà truyền giáo can
đảm

175. Yêu mến Đức Kitô, người trẻ được mời gọi
làm chứng cho Tin Mừng ở mọi nơi bằng chính đời sống của mình. Thánh Alberto
Hurtado đã nói rằng “là tông đồ không có nghĩa là đeo một huy hiệu trên ve áo;
không có nghĩa là thuyết giảng về chân lý, nhưng là sống chân lý, trở thành
hiện thân của chân lý, được biến đổi thành Đức Kitô. Trở thành một tông đồ
không có nghĩa là người phải cầm một ngọn đuốc trong tay, sở hữu ánh sáng,
nhưng là chính ánh sáng […]. Tin Mừng, […] là một gương sáng hơn là một bài
học. Sứ điệp biến thành sự sống hiện sinh”.

176. Giá trị của chứng từ không có nghĩa là
chúng ta phải câm lặng không nói Lời Chúa. Tại sao lại không nói về Chúa Giêsu
chứ, tại sao không kể cho người khác rằng Người ban cho chúng ta sức sống, rằng
chúng ta thích thú trò chuyện với Người, rằng chúng ta sống rất tốt với việc
suy niệm Lời Người? Hỡi các bạn trẻ, đừng để thế giới lôi kéo chúng con vào
việc chỉ chia sẻ những sai lầm và hời hợt. Các con hãy cố lội ngược dòng và hãy
biết chia sẻ Đức Giêsu, thông truyền đức tin mà Người đã ban cho các con. Cha
cầu chúc các con cảm nhận trong lòng sự thúc đẩy không thể cưỡng lại như đã tác
động nơi Thánh Phaolô làm ngài thốt lên: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng
Tin Mừng!” (1 Cr 9,16).

177. “Chúa Giêsu sai chúng ta đi đâu? Không có
ranh giới, không có giới hạn: Người sai chúng ta đến với mọi người. Tin Mừng
dành cho tất cả mọi người và không chỉ dành cho một số người. Tin Mừng không
chỉ dành cho những người có vẻ gần gũi hơn, dễ tiếp thu hơn, dễ đón nhận hơn.
Tin Mừng dành cho tất cả mọi người. Các con đừng sợ ra đi và mang Đức Kitô vào
mọi môi trường, cho đến những cuộc sống ở vùng ngoại vi, ngay cả với người xa
xăm nhất, người thờ ơ nhất. Chúa tìm kiếm mọi người, Người muốn tất cả cảm nhận
được sự ấm áp của lòng thương xót và tình yêu của Người”. [94] Người mời chúng
ta ra đi công bố sứ vụ mà không sợ hãi, ở bất cứ nơi đâu và với bất cứ người
nào, nơi khu phố, trong trường học, trong lĩnh vực thể thao, trong khi chúng ta
đi chơi với bạn bè, khi làm thiện nguyện hoặc làm việc công sở, tất cả đều luôn
là dịp tốt và thuận tiện để chia sẻ niềm vui của Tin Mừng. Đây là cách Chúa
tiếp cận mọi người. Và Người muốn các con, những người trẻ, như những phương
tiện để Người chiếu giãi ánh sáng và hy vọng, bởi vì Người tin tưởng vào sự can
đảm, sự tươi trẻ và lòng nhiệt thành của các con.

178. Các con đừng mong sứ vụ này dễ dàng và
thoải mái. Một số người trẻ đã dâng hiến đời mình theo sự thôi thúc truyền
giáo. Các Giám mục Hàn Quốc diễn tả thế này: “Chúng tôi hy vọng có thể trở
thành những hạt lúa mì và những khí cụ cho việc cứu rỗi nhân loại, nhờ theo
gương các vị tử đạo. Mặc dù đức tin của chúng ta nhỏ bé như hạt cải, Thiên Chúa
sẽ làm cho nó lớn lên và sẽ sử dụng nó như một khí cụ cho công trình cứu độ của
Ngài”. [95] Các bạn hỡi, đừng đợi đến ngày mai mới đóng góp năng lực, sự gan dạ
và sự sáng tạo của các con cho việc biến đổi thế giới này. Tuổi trẻ của các con
không phải là một “thời gian chuyển tiếp”. Các con là hiện tại của Thiên Chúa, Ngài muốn các con trổ sinh hoa trái. [96]
Vì chính khi “cho đi là lãnh nhận” [97] và cách hay nhất để chuẩn bị cho một
tương lai tốt đẹp là sống tốt hiện tại với tinh thần dâng hiến và quảng đại.

 

CHƯƠNG SÁU

NGƯỜI TRẺ VỚI CỘI RỄ

179. Đôi khi tôi bắt gặp những cây nhỏ xinh
xinh, nhánh chúng hướng lên trời cứ vươn lên cao mãi, tựa như một bài ca hy
vọng. Và rồi, sau một cơn bão tôi thấy chúng gục ngã và đã chết. Bởi lẽ, với bộ
rễ lưa thưa chúng vươn cành lên cao trong khi rễ không được bén sâu vào lòng
đất, nên nhanh chóng bị vùi dập dưới sức mạnh của thiên nhiên. Bởi thế tôi đau
buồn khi thấy những người trẻ được gợi ý xây dựng một tương lai mà không có cội
rễ, như thể thế giới mới chỉ bắt đầu hôm nay vậy. Vì “chúng ta không thể lớn
lên nếu thiếu đi những bộ rễ mạnh mẽ để nâng đỡ mình đứng vững và gắn chặt vào
mặt đất. Thật dễ bị cuốn bay đi mất khi chúng ta không có một nơi nào để bám
víu, không có chỗ nào để định cư.” [98]

Đừng để mình bị bật rễ

180. Đây không phải là một vấn đề thứ yếu, tôi
thấy cần dành một chương ngắn để thảo luận về nó. Nếu hiểu vấn đề này cho đúng,
chúng ta sẽ nhận ra sự khác biệt giữa niềm vui của tuổi trẻ với sự sùng bái
tuổi trẻ đầy sai lầm – đó vốn là điều một số người đã sử dụng để dẫn dụ người
trẻ và lợi dụng họ phục vụ cho mục đích của mình.

181. Chúng ta hãy thử nghĩ về điều này: Nếu có
ai đó đề nghị và nói với các con rằng hãy phớt lờ lịch sử và không cần trân
trọng kinh nghiệm của các bậc tiền bối; khinh thường quá khứ mà chỉ nhắm đến
tương lai được họ thêu dệt nên, thì chẳng phải đó là cách thức dễ dàng để họ
lôi kéo các con làm điều họ bảo hay sao? Họ muốn các con nông cạn, mất gốc và
hoài nghi mọi sự, để các con chỉ biết tin vào lời hứa và tuân theo theo những
kế hoạch của họ mà thôi. Đó chính là cách thức mà các ý thức hệ khác nhau thực
hiện. Họ tiêu hủy (hoặc phân rã) mọi sự khác biệt để có thể thống trị mà không
bị phản kháng. Để đạt được điều đó, họ cần làm cho người trẻ xem thường lịch
sử, chối bỏ kho tàng thiêng liêng và nhân bản được truyền lại qua các thế hệ,
và không biết đến tất cả những gì có trước mình.

182. Đồng thời, những kẻ lừa mị còn dùng một
nguồn khác, đó là “sự sùng bái tuổi trẻ”, như thể coi tất cả những gì không còn
trẻ thì đáng chê bai và lỗi thời. Thân xác trẻ trung trở thành biểu tượng cho
trào lưu sùng bái này; và tất cả những gì thuộc về thân xác đó đều được thần
tượng hoá và đáng ham muốn vô hạn, trong khi những gì “không trẻ trung” thì bị
coi thường. Thế nhưng, đó là một thứ vũ khí rốt cuộc chỉ làm hạ cấp đặc biệt là
người trẻ, tước mất của họ những giá trị thực và lợi dụng họ để đạt được những
lợi ích cá nhân, kinh tế hoặc chính trị.

183. Các bạn trẻ thân mến, đừng cho phép người
ta lợi dụng tuổi trẻ của các con, đẩy các con đến một lối sống nông cạn đồng
hoá cái đẹp chỉ với dáng vẻ bên ngoài. Nhưng hãy biết rằng có một vẻ đẹp tuyệt
vời nơi một người lao động trở về nhà với vẻ lấm lem phờ phạc, nhưng lại chan
chứa niềm vui khi đem cơm bánh về cho con cái. Có một vẻ đẹp kỳ diệu của một
gia đình nhỏ hoà hợp quây quần bên mâm cơm gia đình dù rất đạm bạc nhưng biết
chia sẻ quảng đại cho nhau. Có vẻ đẹp nơi một người vợ, dẫu hơi nhếch nhác và
hình hài đã in dấu thời gian, nhưng vẫn tận tụy chăm sóc người chồng ốm đau,
mặc cho đã tuổi cao sức yếu. Dẫu mùa xuân của thời “lưu luyến ấy” đã qua đi,
vẫn có một vẻ đẹp của các cặp đôi trung thành yêu thương nhau đi qua mùa thu
của cuộc đời và vẻ đẹp của các cụ ông cụ bà vẫn nắm tay sánh bước bên nhau đến
cuối cuộc đời. Có một vẻ đẹp, vượt trên cái đẹp ngoại hình và thời trang, nơi
những người nam và người nữ theo đuổi ơn gọi của mình với tình yêu, để phục vụ
quên mình vì cộng đồng và đất nước, nơi những người làm việc quảng đại để xây
dựng một gia đình hạnh phúc, nỗ lực làm việc chăm chỉ trong âm thầm vô vị lợi
để tái thiết một xã hội hoà hợp tiến bộ. Khám phá, bộc lộ và biểu dương những
vẻ đẹp này, vốn là những phản chiếu sống động vẻ đẹp của Đức Kitô trên thập
giá, là ta đã đặt nền tảng cho sự liên đới xã hội đích thật và cho nền văn hoá
gặp gỡ.

184. Cùng với những chiến lược sùng bái tuổi
trẻ và vẻ bề ngoài sai lạc, ngày nay người ta còn cổ võ một thứ linh đạo không
có Thiên Chúa, một kiểu tình cảm không cộng đồng và không dấn thân đến với
những người đau khổ, nỗi sợ người nghèo xem họ như một mối nguy hiểm, và rất
nhiều đề nghị làm chúng con tin vào một tương lai thiên đường ngày càng xa vời.
Cha không muốn giới thiệu với các con những đề nghị như thế, và với cả tấm
lòng, cha xin các con hãy cẩn trọng đừng để mình bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ đó,
bởi nó không những không làm các con nên trẻ trung hơn, mà còn biến các con
thành nô lệ. Cha đề nghị với các con một con đường khác, khởi đi từ sự tự do,
nhiệt huyết và sáng tạo, hướng tới những chân trời mới, và đồng thời, giúp
chúng con chăm sóc những cội rễ nuôi dưỡng và nâng đỡ mình.

185. Theo hướng đó, tôi muốn lưu ý rằng “nhiều
Nghị phụ Thượng Hội đồng đến từ những bối cảnh không phải Tây phương đã cho
thấy là, tại những quốc gia của họ, hiện tượng toàn cầu hoá cũng đồng thời hình
thành nên một hình thức thực dân văn hoá, tách người trẻ ra khỏi những cội rễ
văn hoá và tôn giáo của mình. Hội Thánh cần quan tâm đồng hành với những người
trẻ trong tiến trình này giúp họ không đánh mất những nét quý giá nhất trong
căn tính của họ”. [99]

186. Ngày nay chúng ta thấy một xu thế “đồng
dạng hoá” người trẻ, làm mờ nhạt đi những nét độc đáo về nguồn gốc của họ, và
biến họ thành những thứ sản phẩm dễ uốn nắn hàng loạt. Điều này tạo ra một sự
hủy hoại văn hoá nghiêm trọng tương tự như sự tuyệt chủng của các loài động
thực vật.[100] Vì lý do này, khi nói chuyện với các bạn trẻ bản địa quy tụ tại
Panama vừa qua, tôi đã khuyến khích họ “chăm sóc cội rễ của mình, bởi vì từ
chính cội rễ ấy sẽ phát sinh nguồn sức mạnh, giúp các con lớn lên, triển nở và
trổ sinh nhiều hoa trái”. [101]

Tương quan của các con với
người cao niên

187. Tại Thượng Hội đồng, chúng ta đã nghe nói
rằng “Giới trẻ vươn mình đến tương lai và đầy nghị lực cùng sức năng
động để đối phó với cuộc sống. Tuy nhiên […] đôi khi họ có khuynh hướng
ít để ý đến ký ức của quá khứ mà mình xuất thân, đặc biệt là những
điều tốt họ đã lãnh nhận được từ ông bà, cha mẹ, và hành trang văn
hoá mà xã hội đã đem lại cho họ. Giúp người trẻ khám phá một quá khứ
phong phú và sống động, bằng cách nhớ đến quá khứ và dựa trên đó để
thực hiện những chọn lựa và để phát triển tiềm năng, đó là một hành
vi yêu thương đích thực dành cho họ, tạo điều kiện cho họ trưởng thành và
để họ thực hiện những chọn lựa nên làm”. [102]

188. Lời Chúa khuyên chúng ta đừng quên tiếp
xúc với những bậc cao niên, để có thể học hỏi từ kinh nghiệm của các vị: “Hãy
có mặt khi các bậc lão thành hội họp, thấy vị nào khôn ngoan, hãy hết lòng gắn
bó… Thấy người học thức uyên thâm, con hãy năng lui tới, chân đi mòn ngưỡng cửa
nhà họ” (Hc 6,34.36). Dù sao đi nữa,
những tháng năm dài họ đã sống và tất cả những gì họ đã trải qua trong cuộc
sống đều đáng để chúng ta kính trọng các ngài: “Thấy người đầu bạc, ngươi phải
đứng lên” (Lv 19, 32). Vì, “sức mạnh
là niềm tự hào của giới thanh niên, mái đầu bạc là vinh dự của hàng bô lão” (Cn 20, 29).

189. Kinh Thánh nói với chúng ta: “Hãy lắng
nghe cha con, đấng sinh thành ra con, đừng khinh dể mẹ con khi người già yếu” (Cn 23, 22). Lệnh truyền tôn kính cha mẹ
là “điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa” (Ep
6,2, x. Xh 20,12; Đnl 5,16; Lv 19,3), và lời hứa đó là: “để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên
mặt đất này” (Ep 6, 3).

190. Điều đó không có nghĩa là con phải đồng ý
tất cả những gì mà các ngài nói, hoặc phải chấp nhận mọi hành động của họ. Một
người trẻ cần phải luôn có tinh thần phê bình. Thánh Basiliô Cả khuyên những
người trẻ biết quý trọng các tác giả Hy Lạp cổ, nhưng chỉ chấp nhận những gì
tốt đẹp mà họ dạy.[103] Vấn đề đơn giản chỉ là mở lòng ra để đón nhận sự khôn
ngoan được lưu truyền qua các thế hệ, một sự khôn ngoan gần gũi với thân phận
khốn khổ của con người, và không có lý do gì để tan biến trước những cái mới lạ
của xã hội tiêu thụ và thị trường.

191. Thế giới chưa bao giờ, và cũng sẽ không
bao giờ hưởng lợi ích gì từ sự đoạn tuyệt giữa các thế hệ. Đó là những bài ca
quyến rũ làm mê ngủ về một tương lai không cội rễ và mất gốc. Đó là một sự dối
trá lừa gạt các con tin rằng chỉ có những gì mới mẻ mới là tốt đẹp. Khi có mối
liên kết giữa các thế hệ, thì người ta sẽ nuôi giữ một ký ức tập thể trong các
cộng đồng, vì mỗi thế hệ khi ấy sẽ tiếp nhận những giáo huấn từ những người đi
trước, rồi chuyển giao những di sản đó cho thế hệ theo sau. Bằng cách này,
người ta sẽ có các khung tham chiếu để kiến thiết một xã hội mới vững chắc. Như
châm ngôn người xưa có nói: “Nếu như người trẻ có sự hiểu biết và người già có
sức mạnh, thì không có gì không thể làm được”.

Những giấc mơ và những thị
kiến

192. Tiên tri Giôen có một lời loan báo giúp
ta hiểu vấn đề này một cách tuyệt vời. Với lời ấy Đức Chúa phán: “Ta sẽ đổ thần
khí Ta trên hết thảy người phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành các
tiên tri; người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến” (Ge 3,1; x. Cv 2,17). Khi cả người trẻ lẫn người già đều mở lòng ra đón nhận
Thánh Thần, họ sẽ là một sự kết hợp tuyệt vời. Người già mơ về những ước mơ và
người trẻ thấy những thị kiến. Hai sự việc này bổ túc cho nhau như thế nào?

193. Người cao tuổi có những giấc mơ được dệt
nên từ những ký ức và hình ảnh mang dấu ấn những trải nghiệm qua dòng thời gian
của họ. Nếu người trẻ biết bén rễ mình từ trong những giấc mơ đó của người già,
thì họ sẽ có thể thấy được tương lai, có được những thị kiến mở rộng tầm nhìn
đến chân trời và tìm thấy được những lối đi mới. Nhưng nếu người già không mơ,
thì người trẻ sẽ không còn có thể nhìn thấy rõ được chân trời đích.

194. Thật tuyệt vời nếu chúng ta tìm thấy
được, trong những gì cha mẹ chúng ta lưu giữ được trong ký ức, kỷ niệm nào đó
giúp ta hình dung được những giấc mơ mà ông bà nội ngoại đã từng mơ về chúng
ta. Mỗi người chúng ta, ngay cả trước khi sinh ra, đã nhận được như phúc lành
từ ông bà, một ước mơ đong đầy tình yêu và hy vọng, về một cuộc sống tốt đẹp
hơn. Và nếu đó không phải là ông bà của chúng ta, thì chắc chắn có ông bà cố tổ
trước đó của chúng ta đã mơ giấc mơ hạnh phúc ấy khi ngắm nhìn con cái hay cháu
chắt mình nằm trong nôi. Giấc mơ đầu tiên là giấc mơ tạo dựng của Thiên Chúa,
Cha chúng ta, đi trước và đồng hành với đời sống của con cái Ngài. Ký ức về
phúc lành này, chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, là một gia sản quý
báu chúng ta phải biết giữ gìn cho sống động để rồi chúng ta có thể tiếp tục
chuyển giao.

195. Đó là lý do vì sao chúng ta nên để cho
những vị lớn tuổi kể những câu chuyện dài của họ, những câu chuyện đôi khi
tưởng chừng như mang tính thần thoại, huyễn tưởng. Nhưng, thực ra, chúng là
những giấc mơ của người già, thường cũng chứa đầy những kinh nghiệm quý báu,
với những biểu tượng hùng hồn và những thông điệp ẩn sâu dưới đó. Những câu
chuyện này thường dài cần có một khoảng thời gian để kể lại, chúng ta cần sẵn
sàng kiên nhẫn lắng nghe, và hãy để cho chúng lắng đọng, cho dù những câu
chuyện ấy thường dài dòng hơn, khác với cách mà chúng ta vẫn quen nghe nhìn
trên các mạng xã hội ngày nay. Chúng ta phải nhìn nhận rằng mọi sự khôn ngoan
cần thiết cho cuộc sống vượt ra khỏi ranh giới của những nguồn thông tin truyền
thông hiện nay.

196. Trong quyển sách “Sự Khôn ngoan của Thời gian” [104] tôi đã diễn tả một số suy tư
của mình dưới hình thức các câu hỏi. “Tôi xin gì với các vị cao niên, thuộc
nhóm thế hệ của tôi? Tôi xin chúng tôi là những người lưu giữ ký ức. Chúng ta,
những người ông người bà, cần phải lập một ca đoàn. Tôi hình dung những người
già như một ca đoàn thường trực của một ngôi đền thánh thiêng liêng quan trọng,
ở đó các lời cầu nguyện khẩn nài và những bài thánh ca chúc tụng nâng đỡ toàn
thể cộng đồng đang làm việc và chiến đấu trong cuộc sống”. [105] Thật là tốt
đẹp khi “nam thanh nữ tú, bô lão cùng nhi đồng, cùng ca tụng thánh danh Đức
Chúa” (Tv 148,12-13).

197. Chúng ta, những người cao niên có thể
truyền lại những gì cho thế hệ trẻ? “Chúng ta có thể nhắc cho những người trẻ
hôm nay, những người đang sống những tham vọng táo bạo và cả những bất an, rằng
một cuộc sống thiếu vắng tình yêu là một cuộc đời cằn cỗi”. [106] Chúng ta có
thể nói gì với họ? “Chúng ta có thể nói với những người trẻ đang sợ hãi rằng họ
có thể vượt qua những lo lắng về tương lai”. [107] Chúng ta có thể dạy họ điều
gì? “Chúng ta có thể dạy những người trẻ, vốn quá bận tâm về bản thân mình,
rằng cho đi thì vui hơn là nhận lãnh. Rằng tình yêu không chỉ thể hiện bằng lời
nói mà còn bằng hành động nữa” [108]

Cùng nhau mạo hiểm

198. Một tình yêu hiến thân và hành động,
nhiều lúc sai lầm. Kẻ hành động, mạo hiểm, thường mắc sai lầm. Ở đây chúng ta
có thể nhận ra chứng tá rất hay của bà Maria Gabriella Perin, bị mồ côi cha sau
khi chào đời. Bà đã kể lại ảnh hưởng của biến cố này như thế nào đối với cuộc
sống của mình, trong một mối quan hệ không dài lâu nhưng đã biến bà thành một
người mẹ và giờ đây là người bà. “Những gì tôi biết đó là Thiên Chúa là Đấng đã
làm ra những câu chuyện. Trong quyền năng và lòng thương xót của Ngài, Ngài dùng
những chiến thắng cũng như những thất bại của chúng ta, để dệt nên một tấm thảm
tuyệt đẹp đầy hài hước. Mặt trái tấm thảm trông có vẻ lộn xộn với những sợi chỉ
rối rắm – tức các sự kiện xảy đến trong cuộc sống chúng ta – và có lẽ đây là
phía mà chúng ta cảm thấy mất bình an khi có những nghi ngờ. Nhưng mặt phải của
tấm thảm thì cho thấy một câu chuyện tuyệt vời, đây chính là mặt Thiên Chúa
nhìn thấy”. [109] Khi những người già chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc sống, họ
thường trực giác thấy những gì phía sau mớ chỉ rối rắm đó. Và họ nhận ra những
gì Thiên Chúa có thể thực hiện sáng tạo ngay cả từ những sai lầm của chúng ta.

199. Nếu chúng ta cùng đi trên cuộc hành
trình, người trẻ và người già, chúng ta sẽ có có thể cắm rễ sâu trong hiện tại,
và từ đây để cùng nhìn về quá khứ và hướng về tương lai. Ôn lại quá khứ để học
bài học lịch sử và chữa lành những vết thương cũ đôi khi còn tái phát. Hướng
tới tương lai để nuôi dưỡng lòng hăng hái, để làm cho những giấc mơ nẩy mầm,
khơi lên những viễn tượng và làm cho hy vọng nở hoa. Bằng cách đó, chúng ta
được hiệp nhất, có thể học hỏi lẫn nhau, sưởi ấm con tim, khơi động tâm trí với
ánh sáng của Phúc âm, và thêm sức mạnh mới cho đôi tay của mình.

200. Cội rễ không phải là những mỏ neo cột
chặt chúng ta vào quá khứ, ngăn cản không cho ta nhập thể trong thế giới hiện
tại để sáng tạo điều gì đó mới mẻ. Ngược lại, chúng là một căn cứ điểm xuất
phát, cho ta lớn lên và đương đầu với những thách thức mới. Bởi thế, cũng sẽ
chẳng ích gì khi “chỉ ngồi đó mà hoài niệm thời đã qua; chúng ta phải đón nhận
nền văn hoá của chúng ta cách thực tế với tình yêu, và làm đầy nó bằng Phúc âm.
Ngày hôm nay chúng ta được sai đi để loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho thời
đại mới. Chúng ta cần phải yêu thời đại này, với cả những cơ hội và rủi ro; với
những niềm vui và những nỗi buồn; những sự giàu có và những giới hạn; những
thành công và những thất bại của nó”. [110]

201. Trong Thượng Hội đồng, một bạn trẻ trong
các dự thính viên đến từ đảo Samoa, đã nói về Hội Thánh như một chiếc thuyền
nhỏ, trong đó, người già giúp dẫn đường chỉ lối, bằng việc định vị các ngôi
sao, trong khi người trẻ tiếp tục chèo, và hình dung những gì đang chờ họ phía
trước. Chúng ta đừng để mình đi lạc đường bởi những người trẻ cho rằng người
lớn chỉ là một quá khứ không còn ý nghĩa gì, cũng như những người lớn, vốn tin
chắc rằng mình luôn biết người trẻ cần phải hành động như thế nào. Thay vào đó,
tất cả chúng ta hãy bước lên cùng một chiếc thuyền và cùng nhau tìm kiếm một
thế giới tốt đẹp hơn, với sức năng động luôn luôn mới của Chúa Thánh Thần.

 

CHƯƠNG BẢY

MỤC VỤ GIỚI TRẺ

202. Mục vụ Giới trẻ theo truyền thống đã bị
ảnh hưởng đáng kể bởi những thay đổi của xã hội và văn hoá. Người trẻ thường
không thấy các chương trình thông thường của chúng ta đáp ứng được các mối quan
tâm, các nhu cầu, các vấn đề, và các thương tổn của họ. Sự lan rộng và tăng
trưởng của các hiệp hội và các phong trào chủ yếu gắn với người trẻ có thể được
giải thích như là công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng chỉ cho
chúng ta những nẻo đường mới. Tuy nhiên, cần phải xem xét kỹ lưỡng cách thức
các nhóm tham dự vào định hướng mục vụ tổng thể của Hội Thánh, cũng như cần có
sự hiệp thông nhiều hơn nữa giữa các nhóm, và sự phối hợp tốt hơn các hoạt động
của họ. Mặc dù không luôn dễ dàng tiếp cận người trẻ, vẫn có hai khía cạnh
chúng ta đang lớn lên: sự ý thức toàn thể cộng đồng phải tham gia vào công cuộc
Phúc âm hoá người trẻ, và nhu cầu cấp bách để người trẻ đảm nhận một vai trò quan
trọng hơn nữa trong các chương trình mục vụ.

Một mục vụ mang tính hiệp
hành (synodalité)

203. Tôi muốn tuyên bố rõ ràng rằng chính
người trẻ là tác nhân của Mục vụ Giới trẻ. Chắc chắn họ cần được hỗ trợ và
hướng dẫn, nhưng đồng thời họ cũng phải được tự do phát triển những cách thức
mới với tinh thần sáng tạo và táo bạo. Vì vậy, sẽ dư thừa nếu tôi dừng ở đây để
đưa ra một cẩm nang mục vụ giới trẻ hay những hướng dẫn thực hành mục vụ. Tốt
hơn là hãy quan tâm giúp người trẻ vận dụng sự thông minh, năng khiếu và kiến
thức của mình để giải quyết các vấn đề nhạy cảm cũng như các mối bận tâm của
những người trẻ khác bằng ngôn ngữ của họ.

204. Người trẻ giúp chúng ta nhận ra nhu cầu
phải có những phong cách làm việc và chiến lược mới. Chẳng hạn, trong khi người
lớn thường lo lắng mọi thứ phải được lên kế hoạch, với các cuộc họp định kỳ và
thời gian biểu ổn định, thì đa số những người trẻ ngày nay ít quan tâm đến kiểu
cách mục vụ này. Mục vụ giới trẻ cần được linh động hơn và mời người trẻ đến
với các sự kiện mà nơi đó, người trẻ không chỉ có cơ hội để học hỏi, nhưng còn
để chia sẻ cuộc sống, liên hoan, hát múa, nghe những câu chuyện thực của các
chứng từ và cùng nhau gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống trong cộng đoàn.

205. Đàng khác, chúng ta nên xem xét nhiều hơn
đến những thực hành đã mang lại hiệu quả, như những phương pháp, ngôn ngữ và
mục tiêu tỏ ra hữu hiệu trong việc đưa người trẻ đến với Chúa Kitô và Hội
Thánh. Ta không cần quan tâm đến nguồn gốc hay nhãn hiệu, là “bảo thủ hay cấp
tiến”, là “phe hữu hay phe tả”. Điều quan trọng là chúng ta tận dụng tất cả
những gì phát sinh hiệu quả tốt lành và thông truyền hữu hiệu niềm vui Tin
Mừng.

206. Mục vụ Giới trẻ phải mang tính “hiệp
hành” (synodale), nghĩa là có khả
năng liên kết trong một “hành trình chung”, điều đó bao hàm “sự quý trọng các
đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho mỗi thành viên trong Giáo hội theo
ơn gọi và vai trò của mình, đồng thời sẽ thúc đẩy mọi thành viên
tham gia gánh vác trách nhiệm. […] Với tinh thần này, chúng ta sẽ có thể tiến
đến một Giáo hội có nhiều tác nhân tham gia và cùng chia sẻ trách nhiệm,
một Giáo hội có khả năng cho thấy được nét phong phú nhờ tính đa dạng,
đồng thời chúng ta cũng đón nhận với lòng biết ơn sự đóng góp của
các tín hữu giáo dân, nhất là của giới trẻ và nữ giới, cùng sự chung
tay góp sức của các người sống đời thánh hiến nam và nữ, của các
nhóm, hội đoàn và phong trào. Chúng ta không được gạt bỏ một ai hoặc
làm cho một ai có thể muốn xa lánh chúng ta”. [111]

207. Bằng cách này, qua việc học hỏi lẫn nhau,
chúng ta có thể diễn tả tốt hơn một thực tại đa diện kỳ diệu mà Hội Thánh của
Đức Giêsu Kitô phải trở thành. Hội Thánh có thể thu hút người trẻ chính vì mình
không là một thực thể hiệp nhất đồng chất, nhưng trong một mạng lưới các ơn ban
đa dạng mà Chúa Thánh Thần không ngừng tuôn đổ và luôn đổi mới Hội Thánh, bất
chấp sự nghèo nàn khốn cùng của Hội Thánh.

208. Tại Thượng Hội đồng, nhiều đề nghị cụ thể
được nêu lên nhằm đổi mới Mục vụ Giới trẻ và giải phóng nó khỏi những cách thức
không còn hiệu quả vì thiếu khả năng đối thoại với nền văn hoá của người trẻ
thời đại. Dĩ nhiên, tôi không thể liệt kê tất cả những điều đó ở đây. Có thể
tìm thấy một số đề nghị trong Văn kiện kết thúc của Thượng Hội đồng Giám mục.

Những đường hướng hoạt động
chính yếu

209. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh cách vắn tắt rằng
Mục vụ Giới trẻ bao gồm hai hướng đi chính. Một là tìm kiếm, mời và kêu gọi để hấp dẫn các bạn trẻ mới hướng các bạn
tới với một kinh nghiệm về Chúa. Hai là thăng
tiến
, phát triển một lộ trình cho những người đã có kinh nghiệm đó để
trưởng thành hơn.

210. Về điểm thứ nhất, tìm kiếm, tôi tin tưởng nơi người trẻ, chính họ biết cách nào là
tốt nhất để quy tụ lại với nhau. Họ biết cách tổ chức các sự kiện lễ hội, các
hội thao, cũng như cách loan báo Tin Mừng qua các mạng xã hội, qua các tin
nhắn, các bài hát, video và những phương tiện truyền thông khác. Chỉ cần khuyến
khích họ và tạo một khoảng không tự do để họ có thể hăng hái Phúc âm hoá những
người trẻ khác ở mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh. Sứ điệp Tin Mừng đầu tiên được
loan báo, dù trong một “kỳ tĩnh tâm ấn tượng”, hay qua một cuộc trò chuyện
trong quán bar, vào dịp nghỉ lễ ở trường học, hay trong bất cứ một đường lối
diệu kỳ nào của Thiên Chúa, có thể làm thức tỉnh một kinh nghiệm đức tin sâu
sắc. Điều quan trọng nhất là mỗi người trẻ cần có đủ mạnh dạn để gieo hạt giống
Tin Mừng đầu tiên trên mảnh đất màu mỡ là tâm hồn của một bạn trẻ khác.

211. Trong khi tìm kiếm, chúng ta cần đặc biệt
quan tâm đến ngôn ngữ biểu lộ sự thân tình, ngôn ngữ của tình yêu quảng đại và
tương giao hiện sinh chạm đến được lòng người, tác động đến cuộc sống, đánh
thức những khát khao và hy vọng. Người trẻ cần được tiếp cận qua văn phạm của
tình yêu, chứ không phải bằng cách thuyết giảng chiêu dụ. Người trẻ có thể hiểu
được ngôn ngữ của những người sống hiến thân, những người sống với họ và cho
họ, và cả những ai, dù còn đầy giới hạn và yếu đuối, cố gắng sống đức tin chân
thành. Đồng thời, chúng ta cũng phải cố tìm tích cực hơn nữa những cách thức để
đưa lời rao giảng tiên khởi (kerygma)
vào ngôn ngữ của giới trẻ ngày nay.

212. Về việc thăng tiến, tôi muốn nhắc nhở một điều quan trọng. Ở một số nơi,
sau khi được giúp đỡ để có được một kinh nghiệm đậm đà về Thiên Chúa, thay vì
được tạo điều kiện để gặp gỡ Chúa Giêsu Đấng đã chạm đến trái tim họ, người trẻ
chỉ được tham dự những cuộc gặp gỡ “huấn luyện” lên lớp về những vấn đề đạo lý
và luân lý như: những sự dữ trong thế giới ngày nay, về Hội Thánh, về học
thuyết xã hội, về đức khiết tịnh, về hôn nhân, về kiểm soát sinh sản và những
chủ đề khác. Kết quả là nhiều người trẻ chán ngán, mất đi lửa nhiệt thành gặp
gỡ Chúa Kitô và niềm vui bước theo Người. Nhiều người bỏ cuộc, còn những người
khác thì buồn chán và tiêu cực. Đừng quá lo lắng truyền đạt thật nhiều nội dung
giáo thuyết, nhưng trước hết, chúng ta hãy cố đánh thức và giúp các bạn đào sâu
những kinh nghiệm tuyệt vời có sức nâng đỡ đời sống Kitô hữu. Theo lời của
Romano Guardini: “Khi chúng ta kinh nghiệm một tình yêu lớn […] thì mọi sự sẽ
trở nên một biến cố liên hệ trong tình yêu đó”.[112]

213. Bất cứ dự án giáo dục hay chương trình
thăng tiến nào cho người trẻ chắc chắn cũng phải bao gồm việc đào tạo giáo lý
và luân lý. Đây cũng là một điểm quan trọng được quy tâm vào hai trục chính. Một
là đào sâu lời rao giảng tiên khởi kerygma,
vốn là kinh nghiệm nền tảng của cuộc gặp gỡ Thiên Chúa qua cái chết và sự Phục
sinh của Đức Giêsu. Hai là sự phát triển trong tình huynh đệ, trong đời sống
cộng đoàn và phục vụ.

214. Đây là điều đã được nhấn mạnh trong Tông
huấn Niềm vui Tin Mừng (Evangelii
Gaudium)
mà tôi thiển nghĩ giờ đây cần được nhắc lại. Một đàng, sẽ là một
sai lầm nghiêm trọng khi nghĩ rằng trong Mục vụ Giới trẻ “Lời rao giảng tiên khởi (kerygma) nên nhường chỗ cho một sự huấn
luyện được cho là “vững chắc” hơn. Không có gì vững chắc hơn, sâu sắc hơn, đậm
đà hơn và khôn ngoan hơn lời rao giảng tiên khởi ấy. Tất cả sự huấn luyện đức
tin Kitô giáo trước hết là việc đi sâu vào lời
rao giảng tiên khởi
và làm cho nó ngày càng đi sâu hơn và tốt hơn trong
cuộc sống của chúng ta”. [113] Vì thế, Mục vụ Giới trẻ nên thường xuyên tạo ra
các cơ hội để làm mới và đào sâu kinh nghiệm cá vị của mỗi người về tình yêu
của Thiên Chúa và của Đức Giêsu Kitô đang sống. Có thể làm điều này bằng những
cách thức khác nhau như: chia sẻ chứng từ, các bài hát, giờ chầu, suy niệm Lời
Chúa, và thậm chí là sử dụng các mạng xã hội cách khôn ngoan. Thế nhưng, không
bao giờ được thay thế kinh nghiệm thú vị gặp gỡ Chúa bằng một loại hình “tuyên
truyền” có tính giáo điều nào.

215. Đàng khác, bất kỳ kế hoạch Mục vụ Giới
trẻ nào cũng nên kết hợp rõ ràng với những phương tiện và nguồn lực khác nhau,
để giúp người trẻ triển nở trong tình huynh đệ, sống như anh em với nhau, giúp
đỡ lẫn nhau, xây dựng cộng đoàn, phục vụ người khác, gần gũi với người nghèo.
Nếu tình huynh đệ là “điều răn mới” (Ga
13,34), “là sự chu toàn Lề luật” (Rm 13,10)
và là cách tốt nhất thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa, thì nó phải chiếm một
vị trí chính yếu trong mọi chương trình đào tạo và thăng tiến người trẻ.

Các môi trường phù hợp

216. Các tổ chức, đoàn thể của chúng ta cần
phát triển và củng cố cho thật tốt hơn khả năng đón tiếp thân tình, vì nhiều
bạn trẻ cảm thấy bị bỏ rơi. Ở đây, tôi không nói đến các vấn đề trong gia đình,
mà muốn nói đến một kinh nghiệm tương tự liên hệ đến các trẻ em, người trẻ và
người lớn, cha, mẹ và con cái. Đối với những kinh nghiệm “mồ côi” của người
thời đại ngày nay, có lẽ cũng bao gồm cả chúng ta nữa, các cộng đoàn như giáo
xứ hoặc trường học nên tạo những cơ hội để mỗi người cảm nghiệm tình yêu vị tha
và triển nở, được khẳng định và trưởng thành. Nhiều người trẻ ngày nay cảm thấy
họ là con cái kế thừa những ước mơ thất bại từ cha mẹ và ông bà, những ước mơ
bị thiêu rụi bởi sự bất công, bạo lực xã hội, ích kỷ. Bao nhiêu là người cảm
thấy bị trốc gốc! Nếu người trẻ lớn lên trong một thế giới tan hoang, thật khó
để họ có thể giữ được sống động ngọn lửa của những giấc mơ và hoài bão lớn. Nếu
lớn lên trong một sa mạc trống rỗng ý nghĩa, làm sao người trẻ có thể nuôi
dưỡng ước muốn dâng hiến để gieo mầm sống? Kinh nghiệm của sự đứt đoạn, trốc rễ
và sụp đổ những điểm tựa nền tảng, bị tác động thêm bởi nền văn hoá truyền
thông ngày nay, tạo ra một cảm giác “mồ côi” sâu sắc, đáp lại điều đó chúng ta
phải tạo ra một môi trường hấp dẫn và đầy tình huynh đệ, nơi đó người trẻ có
thể sống có định hướng.

217. Dựng “nhà” là dựng một “gia đình”. “Đó là
học cảm nhận mình được liên kết với người khác qua một mối quan hệ liên đới
vượt trên sự thực dụng hay sự vụ, cảm nhận được đời sống của mình đượm “tình
người” hơn. Dựng “nhà” là để cho sấm ngôn mặc lấy xác phàm và để những ngày giờ
đời ta bớt lạnh lẽo, bớt thờ ơ và vô danh. Đó là tạo lập những mối dây liên kết
bằng những hành động hằng ngày đơn giản ai cũng làm được. Một mái nhà, như mọi
người chúng ta biết rất rõ, cần được chung tay dựng xây. Không ai được phép thờ
ơ hay đứng ngoài cuộc, vì mỗi người là một viên đá cần thiết để xây nên ngôi
nhà ấy. Điều này giả thiết ta phải xin Chúa ban cho chúng ta ơn học biết kiên
nhẫn, học biết tha thứ lẫn nhau, và bắt đầu lại mỗi ngày. Tôi phải tha thứ và
bắt đầu lại bao nhiêu lần? Bảy mươi lần bảy, cần bao nhiêu thì làm bấy nhiêu.
Để kiến tạo những mối liên kết vững chắc, phải có sự tin tưởng được nuôi dưỡng
hằng ngày bởi lòng kiên nhẫn và tha thứ. Và đó là cách phép lạ xảy ra: ở đây
tất cả chúng ta cảm nhận được sự tái sinh, tất cả được sinh ra một lần nữa, bởi
vì chúng ta cảm nhận được bàn tay chăm sóc quan phòng của Thiên Chúa giúp chúng
ta có thể mơ ước về một thế giới đầy tình người hơn, và do đó là một thế giới
thần thiêng hơn.”[114]

218. Trong khung cảnh này, các tổ chức của
chúng ta cần tạo cho người trẻ không gian của riêng họ, để họ có thể tổ chức
thoải mái, họ có thể tự do đến và đi, cảm thấy được đón tiếp và có thể đi lại
tự nhiên và tin cậy để gặp gỡ những người trẻ khác, khi gặp đau khổ chán
chường, hay khi vui mừng hân hoan. Những nơi như thế đã được thực hiện ở một số
nhà thờ có các nhà sinh hoạt và các trung tâm dành cho người trẻ. Trong nhiều
hoàn cảnh, những nơi đó trở thành khung cảnh thân thiện người trẻ có thể sống
kinh nghiệm tình bằng hữu, nam nữ hẹn hò, gặp gỡ nhau, chia sẻ niềm say mê âm
nhạc, giải trí, thể thao, cũng như suy niệm và cầu nguyện, mà không phải bận
tâm nhiều đến chi phí. Bằng cách đó, chúng ta mở đường cho việc loan báo sứ
điệp Tin mừng thiết yếu qua sự tiếp xúc cá nhân, là cách mà không một phương
pháp mục vụ nào khác có thể thay thế được.

219. “Tình bạn và sự trao đổi, ngay cả
trong những nhóm có cơ cấu ít nhiều, thường đem đến cơ hội để củng cố các
kỹ năng xã hội và tương giao, trong bối cảnh mà mình không bị đánh giá hay
bị phê phán. Kinh nghiệm nhóm cũng là một thuận lợi rất lớn để chia sẻ đức
tin và giúp nhau làm chứng. Người trẻ có khả năng dẫn dắt người trẻ khác và
sống một đời tông đồ đích thực giữa những người bạn của mình”. [115]

220. Nói thế không có nghĩa là họ nên cô lập
mình và đóng kín mọi liên hệ với các cộng đoàn của giáo xứ, những phong trào và
những tổ chức tôn giáo khác trong Hội Thánh. Nhưng họ sẽ hoà nhập tích cực hơn
vào những cộng đoàn mở ra cho họ, sống đức tin, tha thiết toả chiếu Đức Kitô,
vui tươi, tự do, đầy tình huynh đệ và tinh thần dấn thân. Những cộng đoàn này
có thể trở thành những kênh chuyển thông nơi đó họ cảm thấy có thể vun trồng
những mối quan hệ quý giá.

Mục vụ giới trẻ trong môi
trường giáo dục

221. Trường học chắc hẳn là một môi trường
thuận tiện để tiếp cận thiếu nhi và người trẻ. Vì trường học là nơi ưu việt để
phát triển con người, nên cộng đoàn Kitô hữu đã luôn rất quan tâm huấn luyện
giáo viên và các nhà quản trị, thành lập các trường của mình với nhiều loại
hình và cấp độ khác nhau. Trong lĩnh vực giáo dục người trẻ, Thánh Thần đã khơi
lên rất nhiều đặc sủng và chứng tá thánh thiện. Tuy nhiên, các trường cần cấp
thiết tự kiểm điểm, nếu chúng ta lưu ý đến kết quả mục vụ của nhiều tổ chức
giáo dục, sẽ thấy nhiều trường thường tập chú vào một kiểu giáo dục đức tin nào
đó ít có khả năng khơi dậy những kinh nghiệm đức tin lâu bền. Hơn nữa, một số
trường Công Giáo dường như được tổ chức chỉ để tự bảo tồn chính mình. Sợ thay
đổi khiến các trường không thể chấp nhận được sự bấp bênh và phòng thủ trước
các nguy cơ, cả nguy cơ thật lẫn tưởng tượng, có thể có do một sự thay đổi bất
kỳ mang lại. Trường học mà biến thành một “hầm trú ẩn” bao bọc học sinh tránh
xa những sai lầm “từ bên ngoài” là một biếm hoạ cho xu hướng này. Nhưng hình
ảnh ấy phản ánh một cách đáng lo ngại về những gì mà nhiều người trẻ đang phải
trải nghiệm khi họ tốt nghiệp từ một số cơ sở giáo dục ấy. Họ cảm thấy có một
khoảng cách vời vợi giữa những gì họ được học và thế giới họ đang sống. Những
gì họ được dạy về các giá trị tôn giáo và luân lý không hề chuẩn bị cho họ khả
năng chống đỡ trước một thế giới chế nhạo chúng, họ cũng không được học cách cầu
nguyện và thực hành đức tin khả dĩ đứng vững được giữa nhịp sống vội vã của xã
hội. Thật ra, một trong những niềm vui lớn nhất của một nhà giáo dục là nhìn
thấy học trò của mình trở thành một con người mạnh mẽ, thống nhất, chủ động và
có khả năng cống hiến.

222. Trường học Công Giáo vẫn là nơi chính yếu
để loan báo Tin mừng cho người trẻ. Điều quan trọng là cần nhớ một vài tiêu
chuẩn hướng dẫn được trình bày trong Tông hiến Veritatis Gaudium về việc canh tân và phục hưng các trường học và
các đại học theo hướng “mở ra” truyền giáo. Đó là kinh nghiệm về lời rao giảng tiên khởi (kergyma), đối thoại ở mọi cấp bậc, các
phương thức liên ngành và xuyên ngành, cổ võ nền văn hoá gặp gỡ, khẩn thiết tạo
lập các mạng lưới và lựa chọn phục vụ những người thấp kém nhất, những người bị
xã hội bỏ rơi.[116] Cũng quan trọng không kém là khả năng hội nhập kiến thức
của trí óc, với con tim và đôi tay.

223. Đàng khác, chúng ta không thể tách rời
việc đào tạo tâm linh ra khỏi đào tạo về văn hoá. Hội Thánh luôn muốn phát
triển nền giáo dục văn hoá tốt nhất cho người trẻ. Hội Thánh không được từ chối
công cuộc ấy, vì người trẻ có quyền được như thế. “Đặc biệt ngày nay, quyền
được giáo dục tốt có nghĩa là bảo vệ sự khôn ngoan, tức là, tri thức nhân văn
và phát triển nhân bản. Chúng ta rất thường bị điều khiển bởi những lối sống
tầm thường phù phiếm, lôi kéo chúng ta theo đuổi sự thành công rẻ tiền, hạ giá
sự hy sinh và tiêm nhiễm tư tưởng cho rằng giáo dục là không cần thiết trừ phi
nó đem lại hiệu quả cụ thể tức thời. Không, giáo dục giúp chúng ta biết chất
vấn, ngăn ngừa chúng ta không bị u mê bởi cái tầm thường, thúc đẩy chúng ta tìm
kiếm ý nghĩa cuộc đời. Chúng ta cần đòi lại quyền của mình không để bị lung lạc
bởi những “thứ quyến rũ” tràn ngập ngày nay làm sao lãng khỏi cuộc tìm kiếm
này. Ulysse, để không bị đắm bởi khúc hát của mỹ nhân ngư vốn hay làm mê hoặc
các thủy thủ khiến họ lao thuyền vào ghềnh đá, đã tự trói mình vào cột buồm và
buộc những người đồng hành phải bịt kín tai lại. Còn Orpheus thì lại có cách
đối phó khác với khúc hát của các nàng tiên cá: chàng tấu lên một giai điệu còn
hay hơn có sức mê hoặc các mỹ nhân ngư kia. Đây là nhiệm vụ cao cả của các con,
đó là đáp lại những điệp khúc làm tê liệt xã hội của trào lưu tiêu thụ về văn
hoá bằng những lựa chọn năng động và quyết liệt, bằng sự tìm tòi, hiểu biết và
chia sẻ.”[117]

Những lĩnh vực cần được phát
triển

224. Nhiều người trẻ đã học biết nếm hưởng sự
thinh lặng và sống thân mật với Chúa. Ngày càng có nhiều nhóm tập hợp để tôn
thờ Thánh Thể và cầu nguyện dựa trên Lời Chúa. Chúng ta không được xem thường
khả năng của người trẻ trong việc cầu nguyện chiêm niệm. Chỉ cần tìm ra cách
thức và kiểu mẫu thích hợp để giúp họ dấn thân vào kinh nghiệm quý giá này.
Liên quan đến việc thờ phượng và cầu nguyện, “trong nhiều bối cảnh, giới trẻ
công giáo mong muốn có được một đường lối phụng vụ mới mẻ, đích thực
và vui tươi, đem đến cho họ những giờ phút cầu nguyện và những buổi cử
hành bí tích có thể lay động đời sống thường ngày”. [118] Thật quan
trọng nếu biết quý trọng những thời nhịp mạnh nhất của năm phụng vụ, đặc biệt
là Tuần Thánh, lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, và Giáng Sinh. Người trẻ cũng vui
thích gặp gỡ trong những dịp lễ khác ngắt nhịp sống đều đặn thường nhật và giúp
họ sống kinh nghiệm niềm vui đức tin.

225. Những việc phục vụ của người Kitô hữu là
một cơ hội ưu việt để người trẻ phát triển và mở ra đón nhận ơn huệ đức tin và
đức ái do Chúa ban. Nhiều người trẻ được lôi cuốn bởi các cơ hội giúp đỡ người
khác, nhất là trẻ em và người nghèo. Thường việc phục vụ này là bước đầu tiên
để khám phá và tái khám phá đời sống Kitô hữu và Hội Thánh. Nhiều người trẻ mệt
mỏi với những chương trình huấn luyện giáo lý và thiêng liêng, và đôi khi họ
yêu cầu có cơ hội được tham gia tích cực vào các hoạt động giúp ích cho tha
nhân.

226. Chúng ta không thể quên những diễn tả
nghệ thuật, như kịch nghệ, hội hoạ, và nhiều thể loại khác. “Tầm quan trọng của
âm nhạc vô cùng đặc biệt; âm nhạc là một môi trường thực sự và giới trẻ
thường xuyên ngụp lặn trong đó, như một loại văn hoá và một loại ngôn ngữ
có khả năng khơi dậy cảm xúc và xây dựng căn tính. Ngôn ngữ âm nhạc cũng là
một lợi ích cho mục vụ, đặc biệt là cho phụng vụ và canh tân phụng vụ”
[119]. Ca hát có thể là một lực đẩy quan trọng đối với người trẻ khi họ đi trên
con đường trần thế. Như Thánh Augustinô nói: “Hãy ca hát, nhưng cũng tiếp tục
tiến bước. Hãy hát ca để công việc của bạn được nhẹ bớt, đừng lười biếng. Hãy
hát, nhưng cũng hãy tiếp tục tiến bước. […] Khi tiến bước bạn sẽ tiếp tục hành
trình; nhưng hãy tiến bước trong nhân đức, trong đức tin chính thực và những
việc làm thiện lương. Hãy ca hát, và bước tới”. [120]

227. “Việc luyện tập thể thao nơi giới trẻ
cũng có tầm quan trọng không kém. Giáo hội không được đánh giá thấp những
tiềm năng của thể thao trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, và phải cương
quyết luôn hiện diện trong môi trường này. Thế giới thể thao cần được giúp
để khắc phục những thái độ tiêu cực đi kèm, chẳng hạn như sùng bái vô
địch, phục vụ lợi ích thương mại và ý muốn phải thành công bằng mọi
giá”. [121] Ở tâm điểm của kinh nghiệm thể thao là “niềm vui: niềm vui được vận
động, niềm vui quy tụ với nhau, niềm vui sống và đón nhận những quà tặng mà
Đấng Tạo Hoá ban cho ta mỗi ngày”. [122] Đàng khác, một vài Giáo phụ đã dùng ví
dụ về thực hành thể thao để mời gọi người trẻ phát triển sức mạnh và vượt qua
sự chây lười hoặc nhàn rỗi. Thánh Basiliô Cả, khi viết cho người trẻ, đã dùng
ví dụ trong thể thao. Ngài nói, cũng như những vận động viên cần phải rất cố
gắng tập luyện để thi đấu thành công, cũng thế, sự hy sinh xét như một phương
thế rất cần thiết để người ta lớn lên về mặt nhân đức. “Những người ấy phải
chịu đựng muôn vàn hy sinh, sử dụng đủ mọi phương tiện để rèn luyện gia tăng
thể lực, đổ mồ hôi khi thực hành các bài tập luyện thể lực vất vả, […] và, nói
tóm lại, họ sống cả cuộc đời trong kỷ luật chỉ để chuẩn bị cho cuộc thi đấu,
[…] họ đặt nền bằng cách đầu tư cho các nguồn sức mạnh thể lý và tâm lý của họ,
để dành cho được vòng hoa chiến thắng. Vậy thì chúng ta đang mong đợi trong
cuộc sống kia những phần thưởng kỳ diệu không miệng lưỡi nào có thể mô tả được,
làm sao chúng ta có thể nghĩ mình sẽ giành được phần thưởng ấy nếu chỉ biết
sống nhàn rỗi và làm việc ì ạch”. [123]

228. Thiên nhiên đặc biệt hấp dẫn rất nhiều
bạn trẻ thanh thiếu niên. Họ muốn tiếp xúc với thiên nhiên và nhạy cảm với việc
bảo vệ môi trường. Đó chính là trường hợp của phong trào hướng đạo và một số
nhóm khác đang tổ chức những ngày sống giữa thiên nhiên, cắm trại, đi bộ, thám
hiểm, và các chiến dịch cải thiện môi trường. Trong tinh thần của Thánh
Phanxicô Assisi, những kinh nghiệm này có thể khởi xướng một lộ trình huấn
luyện sống tình huynh đệ phổ quát và cầu nguyện chiêm niệm.

229. Những cơ hội này và nhiều cơ hội khác để
Phúc âm hoá người trẻ, không được làm chúng ta quên rằng bên trên sự thay đổi
của lịch sử và của các cảm thức của người trẻ còn có những ơn huệ của Chúa tặng
ban luôn hợp thời. Những ơn ấy có một sức mạnh siêu vượt trên mọi thời đại và
mọi hoàn cảnh. Đó là Lời Chúa luôn sống động và hiệu nghiệm, đó là sự hiện diện
của Đức Kitô trong Thánh Thể nuôi sống chúng ta, và bí tích Giải tội mang lại
cho chúng ta tự do và sức mạnh. Chúng ta cũng có thể nhắc đến kho tàng thiêng
liêng vô tận được Hội Thánh gìn giữ trong chứng tá của các thánh và trong giáo
huấn của các bậc thầy thế giá về linh đạo. Cho dù phải tôn trọng những giai
đoạn khác nhau của cuộc đời, và có khi phải kiên nhẫn chờ đợi thời gian thích
hợp, chúng ta nhất thiết cũng phải mời gọi người trẻ kín múc từ những suối
nguồn sự sống mới này. Chúng ta không có quyền tước đi của họ điều tốt lành
tuyệt vời này.

Một mục vụ giới trẻ đại
chúng

230. Ngoài những mục vụ thông thường, theo kế
hoạch đã định, mà các giáo xứ và các phong trào thực hiện, một điều cũng rất
quan trọng là dành chỗ cho một mục vụ giới trẻ có tính “đại chúng”. Mục vụ này
cần một phong cách, lịch trình, nhịp độ và phương pháp khác. Nó mở rộng hơn và
uyển chuyển hơn, mục vụ này mở ra đi đến những nơi khác nhau mà người trẻ thực
tế đang hoạt động, thúc đẩy những phẩm chất lãnh đạo tự nhiên và đặc sủng mà
Chúa Thánh Thần đã gieo vãi. Trước hết cần phải tránh áp đặt nhiều chướng ngại,
quy tắc, kiểm soát và các cơ cấu trách nhiệm lên các tín hữu trẻ trung đang là
những lãnh đạo tự nhiên trong khu vực của họ và trong các môi trường khác.
Chúng ta chỉ cần đồng hành và khích lệ họ, tin tưởng hơn nữa vào sự quan phòng
của Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động như Ngài muốn.

231. Chúng ta đang nói về những người lãnh đạo
“đại chúng” thật sự, không phải những người thành phần ưu tú hay những người
khép kín trong những nhóm nhỏ được chọn lọc. Để có thể hiến thân cho một mục vụ
“đại chúng” cho giới trẻ “họ cần phải học biết lắng nghe cảm thức của dân
chúng, trở thành người phát ngôn cho dân chúng và làm việc phục vụ cho sự thăng
tiến của dân chúng”. [124] Khi chúng ta nói đến “dân chúng”, chúng ta không
phải là nói về những cơ cấu xã hội hay Hội Thánh, nhưng là về tất cả những con
người đang bước đi, không phải như những cá nhân riêng rẽ mà như một cộng đồng
gắn kết chặt chẽ, bao gồm mọi người và vì mọi người, trên một hành trình không
bao giờ bỏ lại phía sau những người nghèo nhất và những người yếu thế nhất.
“Dân chúng muốn mọi người cùng chia sẻ những ích chung, và do đó, chấp nhận
cùng tiến bước chung nhịp với những người bé mọn nhất để mọi người có thể cùng
đi đến nơi”. [125] Những lãnh đạo “đại chúng”, vì thế, là những người có khả
năng làm cho mọi người cùng tham dự hành trình, bao gồm những người nghèo nhất,
những người yếu kém nhất, những người bị thương tích. Họ không xa lánh cũng
không sợ hãi những người trẻ đã trải qua đau thương và đang vác nặng thập giá.

232. Cũng trong hướng
đi đó, nhất là trường hợp những người trẻ không sinh trưởng trong các gia đình
hay trong tổ chức Kitô giáo, và đang trưởng thành chậm chạp, chúng ta phải
khích lệ tất cả những gì tốt đẹp có thể.[126] Đức Kitô đã cảnh báo chúng ta
đừng chỉ nhìn thấy hạt giống tốt (x. Mt
13,24-30). Đôi khi trong lúc cố gắng phát triển một mục vụ giới trẻ lành mạnh
và thuần khiết, được đánh dấu bởi những ý tưởng trừu tượng, xa cách thế giới
thực và tránh xa mọi nhơ bẩn, chúng ta có thể sẽ biến Tin Mừng thành nhạt nhẽo,
khó hiểu, xa vời, xa cách với văn hoá người trẻ và chỉ phù hợp với một thành
phần người trẻ Kitô hữu ưu tú tự xem mình khác biệt, nhưng kỳ thực tự cô lập
thiếu sức sống và không phong nhiêu. Như thế là chúng ta đã làm trốc rễ và làm
chết ngạt, cùng với cỏ lùng mà ta muốn loại bỏ, cả những mầm chồi đang cố gắng
vươn lên bất kể những giới hạn của chúng.

233. Thay vì “trình bày hàng loạt quy tắc
khiến họ có một hình ảnh thô thiển và nặng tính luân lý về Kitô giáo,
chúng ta nên tin vào sự táo bạo của họ, thúc đẩy và dạy họ biết
gánh lấy trách nhiệm, đồng thời chúng ta cũng tin chắc rằng sai lầm, thất
bại và khủng hoảng là những kinh nghiệm có thể giúp họ lớn lên về mặt nhân
bản.”[127]

234. Thượng Hội đồng khuyến khích xây dựng một
mục vụ giới trẻ có tính bao quát, có thể tạo chỗ cho mọi tầng lớp người trẻ,
qua đó cho thấy thực sự chúng ta là một Hội Thánh mở rộng cửa. Người ta không
cần phải chấp nhận tất cả những giáo huấn của Hội Thánh mới được tham dự vào
một số hoạt động cho người trẻ. Chỉ cần có một thái độ cởi mở hướng đến tất cả
những ai khao khát và sẵn lòng gặp gỡ chân lý mà Chúa mạc khải. Một số hoạt
động mục vụ có thể đòi hỏi phải trải qua một hành trình đức tin nào đó rồi.
Nhưng chúng ta cần một sứ vụ giới trẻ “đại chúng” mở cửa và dành chỗ cho tất cả
mọi người, và cho một số người nào đó còn hoài nghi, bị thương tổn, với những
vấn đề và nỗ lực tìm kiếm danh tính của họ, với những lầm lỗi quá khứ, những
kinh nghiệm tội lỗi và mọi khó khăn của họ.

235. Cũng phải có chỗ cho “tất cả những người
quan niệm cuộc sống cách khác, những người tuyên xưng một niềm tin khác
hoặc những người tuyên bố xa lạ với đời sống tôn giáo. Tất cả người trẻ,
không trừ một ai, đều ở trong trái tim Thiên Chúa và do đó cũng ở trong trái
tim Giáo hội. Nhưng chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng chúng ta
quả quyết trên môi miệng, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng thể
hiện thực sự điều này trong hành động mục vụ: thường chúng ta vẫn khép
kín trong những môi trường của chúng ta, nơi tiếng nói của người trẻ không
vang lên thấu; hoặc chúng ta tập trung vào những hoạt động dễ dãi và thú
vị hơn, và như thế chúng ta bóp nghẹt niềm thao thức mục vụ tốt lành
đang thôi thúc chúng ta phải bước ra khỏi những gì chúng ta cho là an
toàn, trong khi Tin Mừng lại yêu cầu chúng ta phải mạnh dạn. Giờ đây,
chúng ta muốn trở nên mạnh dạn mà không tự mãn, cũng chẳng có ý lôi
kéo ai theo đạo, nhưng chúng ta chỉ làm chứng cho tình yêu Chúa và đưa tay
ra cho tất cả người trẻ trên thế giới để họ nắm lấy”. [128]

236. Mục vụ giới trẻ, khi không chỉ dành cho
thành phần ưu tú mà mở ra cho “đại chúng”, là một quá trình chậm rãi, đầy tôn
trọng, kiên nhẫn, tin tưởng, nhiệt thành và đầy trắc ẩn. Thượng Hội đồng đã đưa
ra mẫu gương là các môn đệ Emmau (x. Lc
24,13-15) như điển hình cho những gì sẽ xảy ra trong công tác mục vụ giới trẻ.

237. “Chúa Giêsu cùng đi với hai môn đệ, hai
ông không hiểu ý nghĩa của những gì đã xảy ra và đang đi xa khỏi Giêrusalem
và cộng đoàn. Để bầu bạn với họ, Chúa Giêsu đã cùng đi với họ trên đường.
Người hỏi họ và kiên nhẫn nghe cách họ kể lại các sự việc, hầu giúp họ nhận ra những gì họ đang sống. Rồi
với giọng đầy yêu thương và quả quyết, Người loan truyền Lời Chúa cho họ,
giúp họ hiểu ra dưới ánh sáng Lời
Chúa ý nghĩa của các biến cố họ
đã trải qua. Người nhận lời mời dừng chân với họ lúc ngày đã tàn: Người bước
vào trong đêm tối của họ. Khi lắng nghe Người, họ cảm thấy lòng ấm lên và
trí sáng ra; khi Người bẻ bánh, mắt họ mở ra. Chính họ chọn đi trở lại lập tức con đường vừa đi, để về với cộng
đoàn và chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Đấng Phục Sinh”. [129]

238. Những biểu hiện khác nhau của lòng đạo
đức bình dân, nhất là những cuộc hành hương, hấp dẫn người trẻ (họ vốn không
cảm thấy dễ dàng tham dự vào các tổ chức Hội Thánh), và là dấu hiệu cụ thể của
niềm tin của họ vào Chúa. Những cách tìm kiếm Chúa như thế được thấy cách riêng
nơi các bạn trẻ nghèo, nhưng cả nơi những người thuộc các thành phần khác của
xã hội. Không được khinh thường những cách thức ấy, nhưng hãy khuyến khích và
thúc đẩy. Vì lòng đạo đức bình dân “là một cách hợp lệ để sống đức tin” [130]
và “là một biểu hiện của hoạt động truyền giáo tự phát của Dân Chúa”. [131]

Luôn là những nhà truyền
giáo

239. Tôi muốn nhắc lại rằng không cần phải làm
một khoá đào tạo dài hạn để biến người trẻ thành những nhà truyền giáo. Ngay cả
những người yếu kém nhất, bị giới hạn và nhiều thương tổn, cũng có thể là những
nhà truyền giáo theo cách riêng của mình, vì điều tốt lành luôn phải được sẻ
chia, cho dù nó tồn tại bên cạnh nhiều giới hạn. Một người trẻ đi hành hương để
xin Đức Mẹ phù hộ, và mời một người bạn khác cùng đi, chỉ bằng cử chỉ ấy thôi
cũng đã là một việc truyền giáo quý giá rồi. Gắn liền với mục vụ giới trẻ đại
chúng là sứ mạng truyền giáo phổ quát, vô định, hoạt động này phá vỡ tất cả
những khuôn mẫu thông thường của Hội Thánh. Chúng ta hãy đồng hành, khích lệ,
nhưng đừng cố can thiệp quá vào những hoạt động như thế.

240. Nếu biết lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần
đang nói với mình, chúng ta sẽ nhận ra rằng mục vụ giới trẻ phải luôn là một
mục vụ truyền giáo. Người trẻ sẽ được phong phú hoá rất nhiều khi họ vượt qua
tính rụt rè và dám đến thăm các gia đình. Bằng cách này họ giao tiếp với những
mảnh đời, và sẽ biết cách nhìn hướng ra khỏi gia đình, nhóm bạn bè của mình, và
bắt đầu có một tầm nhìn xa rộng hơn về cuộc sống. Đồng thời, đức tin và cảm
thức của họ thuộc về Hội Thánh cũng sẽ lớn mạnh lên. Những sứ vụ người trẻ,
thường diễn ra trong những kỳ nghỉ hè sau một thời gian chuẩn bị, có thể dẫn
tới kinh nghiệm đức tin mới mẻ và thậm chí cả những suy nghĩ nghiêm túc về ơn
gọi.

241. Nhưng người trẻ có thể sáng tạo những
hình thức truyền giáo mới trong các hoàn cảnh rất đa dạng. Chẳng hạn như, vì
các bạn trẻ quá quen thuộc với các mạng xã hội, họ nên được khuyến khích đem
Thiên Chúa, tình huynh đệ và sự nhiệt thành dấn thân, vào tràn ngập các mạng
ấy.

Sự đồng hành của những người
trưởng thành

242. Người trẻ cần được tôn trọng sự tự do,
nhưng họ cũng cần được đồng hành. Gia đình phải là nơi đồng hành đầu tiên. Mục
vụ giới trẻ có thể giới thiệu một chương trình sống dựa trên nền tảng Đức Kitô,
như xây dựng một ngôi nhà, một gia đình phải đặt trên nền đá (x. Mt 7,24-25). Đối với phần lớn người trẻ
thì ngôi nhà ấy, dự phóng ấy sẽ được xây dựng trên hôn nhân và tình yêu vợ
chồng. Vì thế, Mục vụ giới trẻ và Mục vụ gia đình cần phải phối kết với nhau,
để bảo đảm sự đồng hành liên tục và thích hợp trong tiến trình ơn gọi.

243. Cộng đoàn có một vai trò rất quan trọng
trong việc đồng hành với người trẻ; toàn thể cộng đoàn phải ý thức trách nhiệm,
đón nhận, động viên, khích lệ và thúc đẩy người trẻ. Điều đó hàm nghĩa chúng ta
nên nhìn người trẻ với sự thông cảm, trân trọng và thương yêu, đừng cứ mãi phán
xét họ hay đòi hỏi họ phải hoàn hảo trước tuổi.

244. Tại Thượng Hội đồng, “Nhiều vị đã nêu lên
vấn đề thiếu người vừa có khả năng vừa có thời gian để đồng hành.
Nếu chúng ta tin rằng lắng nghe có giá trị thần học và mục vụ, chúng ta
phải xem lại và đổi mới những cách thực thi thừa tác vụ linh mục thường
làm, và chúng ta cũng phải nhận định xem đâu là những ưu tiên của thừa
tác vụ này. Hơn nữa, Thượng Hội đồng nhìn nhận cần phải chuẩn bị cho người
thánh hiến và cho cả giáo dân nam nữ để họ có khả năng đồng hành với người
trẻ. Đặc sủng lắng nghe mà Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong các cộng
đồng cũng có thể được thể chế công nhận cách nào đó như một việc phục vụ
của Hội Thánh.”. [132]

245. Ngoài ra, có một nhu cầu đồng hành cách
đặc biệt với những người trẻ tỏ ra có tiềm năng năng lãnh đạo, để giúp họ được
đào tạo và được chuẩn bị những gì cần thiết. Những bạn trẻ gặp gỡ trước Thượng
Hội đồng đã yêu cầu phát triển “những chương trình mới về thuật lãnh đạo trong đào tạo và không ngừng phát triển những người
lãnh đạo trẻ. Một số bạn nữ cảm thấy đang thiếu thốn những mẫu lãnh đạo nữ giới
trong lòng
Hội Thánh, và họ cũng ước ao được cống hiến tài năng trí thức và chuyên môn của
mình cho Hội Thánh. Hơn nữa chúng ta cũng tin rằng các chủng sinh và tu sĩ cần
có năng lực lớn hơn trong việc đồng hành với những lãnh đạo trẻ”. [133]

246. Chính những người trẻ ấy mô tả cho chúng
ta những phẩm chất mà họ hy vọng gặp thấy nơi những người đồng hành với họ, và
họ diễn tả điều này rất rõ ràng. “Những phẩm chất của một người đồng hành như
thế bao gồm: phải là một Kitô hữu giàu đức tin, dấn thân cho Hội Thánh và thế
giới; phải là người không ngừng theo đuổi sự thánh thiện; một người bạn tâm
giao mà không phán xét; một người biết lắng nghe tích cực những nhu cầu của
người trẻ và đáp ứng cách thích đáng; một người có lòng yêu thương sâu sắc và
có ý thức về chính mình; một người nhìn nhận những giới hạn của mình và biết rõ
những niềm vui và sầu khổ trong đời sống thiêng liêng. Một phẩm chất đặc biệt
quan trọng nơi những người đồng hành, đó là biết nhận ra thân phận con người
của mình, tức là những con người có sai lầm: họ không phải là những người hoàn
hảo nhưng là những tội nhân biết mình được tha thứ. Đôi khi những người đồng
hành được đặt trên bệ cao, và khi họ vấp ngã có thể gây tác động tàn phá đến
khả năng người trẻ tiếp tục dấn thân trong Hội Thánh. Những người đồng hành
không nên hướng dẫn người trẻ như những kẻ đi theo thụ động, nhưng phải cùng đi
bên cạnh họ, giúp họ thành những thành viên tích cực trên cuộc hành trình. Họ
cần phải tôn trọng tự do của người trẻ trong tiến trình phân định của họ và
trang bị cho họ những công cụ để làm việc ấy thật tốt. Một người đồng hành phải
tin tưởng sâu xa vào khả năng tham gia đời sống Hội Thánh của người trẻ. Một
người đồng hành phải vun xới hạt giống đức tin nơi người trẻ, mà không kỳ vọng
thấy hoa trái tức thì của công trình Chúa Thánh Thần. Vai trò đồng hành không,
và không thể, chỉ dành riêng cho các linh mục và những người được thánh hiến,
nhưng các giáo dân cũng phải được bồi dưỡng để đảm nhận vai trò này. Tất cả
những người đồng hành nên được huấn luyện cơ bản cách chắc chắn và được huấn
luyện thường xuyên”. [134]

247. Các cơ sở giáo dục của Hội Thánh chắc hẳn
là một môi trường chung cho sự đồng hành. Các cơ sở ấy giúp hướng dẫn rất nhiều
người trẻ, nhất là khi “tìm cách đón tiếp mọi người trẻ, không phân biệt
tôn giáo họ lựa chọn, nguồn gốc văn hoá và hoàn cảnh của họ trên phương
diện cá nhân, gia đình hay xã hội. Như thế, đóng góp của Giáo hội là căn
bản trong việc giáo dục toàn diện cho giới trẻ ở khắp nơi trên thế giới”.
[135] Các cơ sở ấy sẽ cắt giảm mất chức năng này một cách bất cập nếu như đặt
ra những tiêu chuẩn cứng nhắc cho việc tuyển sinh hoặc để tiếp tục theo học, vì
như vậy những cơ sở này sẽ lấy đi của nhiều người trẻ sự đồng hành vốn có thể
giúp làm phong phú đời sống của họ.

 

CHƯƠNG TÁM

ƠN GỌI

248. Quả thật từ “ơn gọi” có thể hiểu theo
nghĩa rộng là một tiếng gọi của Thiên Chúa. Ơn gọi ấy bao gồm tiếng gọi đi vào
hiện hữu, tiếng gọi sống tình bạn với Ngài, tiếng gọi nên thánh, v.v. Điều đó
thật quan trọng, vì nó đặt đời sống chúng ta trước tôn nhan Chúa, Đấng yêu
thương chúng ta, và cho chúng ta hiểu rằng không có gì phát sinh bởi hỗn mang
vô nghĩa, nhưng mọi sự đều ở trên con đường đáp lại tiếng Chúa, Ngài có một kế
hoạch tuyệt vời cho chúng ta.

249. Trong Tông huấn Gaudete et Exsultate, cha đã nói về ơn gọi của mọi người là lớn lên
để làm vinh danh Chúa; và cha đã muốn “nhắc lại lời mời gọi nên thánh theo một
phương cách thực tiễn cho thời đại chúng ta, một thời đại vốn chất chứa nhiều
rủi ro, thách đố và cơ hội”. [136] Công đồng Vaticanô II giúp chúng ta ý thức
lại lời mời gọi này, được gửi đến mỗi người chúng ta: “Tất cả các Kitô hữu, dù
trong hoàn cảnh hay bậc sống nào, cũng đều được Chúa kêu gọi, để mỗi người mỗi
cách, vươn tới sự thánh thiện trọn hảo như chính Chúa Cha là Đấng trọn lành”.
[137]

Lời mời gọi làm bạn với Chúa

250. Điều mà Đức Giêsu muốn nơi mỗi người trẻ
trước hết là làm bạn với Người. Chuyện thiết yếu là phải phân định và khám phá
điều ấy. Đó là sự phân định căn bản. Trong cuộc đối thoại của Chúa Phục Sinh
với Simon Phêrô bạn của Người, câu hỏi quan trọng là: “Simon, con ông Gioan,
anh có yêu mến Thầy không?” (Ga
21,16). Nghĩa là: anh có muốn Thầy là bạn của anh không? Sứ mạng mà Phêrô nhận
lãnh để chăm sóc đoàn chiên của Đức Giêsu sẽ luôn gắn với tình yêu vô cầu này,
với tình yêu bằng hữu này.

251. Và nếu cần một ví dụ ngược lại, chúng ta
hãy nhớ đến cuộc gặp gỡ lạc điệu giữa Đức Giêsu với người thanh niên giàu có.
Cuộc gặp gỡ ấy cho chúng ta thấy rõ điều mà người bạn trẻ ấy đã không cảm nhận
được là cái nhìn đầy yêu thương của Chúa (x. Mc 10,21). Anh tỏ ra buồn rầu, sau những hăm hở ban đầu, vì anh
không thể từ bỏ nhiều thứ anh đang sở hữu (x. Mt 19,22). Anh đã bỏ lỡ cơ hội mà lẽ ra có thể là một tình bạn
tuyệt vời. Và chúng ta, chúng ta vẫn không biết chàng thanh niên độc đáo ấy –
mà Đức Giêsu đã đem lòng yêu thương nhìn anh và chìa tay ra cho anh – sẽ có thể
là gì đối với chúng ta, sẽ có thể làm gì cho nhân loại.

252. Bởi vì “cuộc đời mà Đức Giêsu trao cho
chúng ta là một chuyện tình, một câu
chuyện cuộc đời
muốn hoà quyện vào cuộc đời của chúng ta và đâm rễ trong
mảnh đất của mỗi người chúng ta. Cuộc đời ấy không phải là một ơn cứu độ được
lưu trong ‘đám mây’ chờ chúng ta tải xuống, cũng không phải là một ‘ứng dụng’
mới chờ được khám phá, hay một thực hành kỹ thuật thăng tiến tinh thần. Cuộc
đời mà Chúa ban tặng chúng ta càng không phải là một ‘bản hướng dẫn’ (tutorial)
giúp chúng ta học hỏi điều mới nhất. Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta
một lời mời gọi dự phần vào một câu
chuyện tình
đan kết với những câu chuyện của chúng ta; nó sống động và muốn
được sinh ra giữa chúng ta, để chúng ta có thể sinh hoa trái ở nơi chúng ta
đang sống, như chúng ta đang là, và với những người chúng ta đang cùng sống với
họ. Chính vì thế mà Chúa đến để gieo và để được gieo”. [138]

Sống vì người khác

253. Giờ đây cha muốn nói đến ơn gọi hiểu theo
nghĩa đen là một lời mời gọi thi hành sứ vụ phục vụ tha nhân. Chúng ta được
Chúa kêu gọi tham dự vào công trình tạo dựng của Ngài bằng cách góp phần xây
dựng thiện ích chung với những khả năng chúng ta đã nhận được.

254. Ơn gọi thừa sai này có liên quan đến việc
phục vụ tha nhân. Vì đời sống chúng ta ở trần gian này đạt được tầm vóc viên
mãn khi trở thành một hiến lễ. Cha nhắc lại rằng “sứ mệnh của tôi giữa lòng dân
không phải là một phần của đời tôi hay một món trang sức mà tôi có thể gỡ bỏ;
cũng không phải một cái gì phụ thêm hay chỉ là một khoảnh khắc khác trong cuộc
đời. Nhưng là điều mà tôi không được dứt bỏ khỏi mình nếu không muốn tự huỷ
hoại mình. Tôi là một sứ mệnh trên trái đất này; và vì thế mà tôi có mặt trong
đời” [139]. Vì thế, phải quan niệm rằng mọi hoạt động mục vụ phải hướng đến ơn
gọi, mọi hoạt động đào tạo phải hướng đến ơn gọi và mọi nền linh đạo phải hướng
đến ơn gọi.

255. Ơn gọi của con không chỉ hệ tại ở những
công việc mà con phải làm, mặc dù ơn gọi thể hiện nơi những công việc ấy. Ơn
gọi là một cái gì hơn thế: đó là một con đường sẽ hướng những nỗ lực và hoạt
động của con theo chiều hướng phục vụ. Vì thế trong việc phân định ơn gọi, điều
quan trọng là xem coi chúng ta có nhận ra nơi mình những khả năng cần thiết cho
công việc phục vụ chuyên biệt ấy trong xã hội hay không.

256. Điều đó đem lại giá trị rất lớn cho những
công việc này, vì chúng không còn chỉ là tất cả những gì chúng ta làm để kiếm
tiền, để khỏi ở không hay để làm vui lòng người khác. Tất cả những điều ấy làm
thành ơn gọi bởi vì chúng ta được kêu gọi; có điều gì đó còn hơn cả sự chọn lựa
thực dụng đơn giản của chúng ta. Cuối cùng, đó là việc nhận ra lý do vì sao tôi
được dựng nên, vì sao tôi đang ở chỗ này, nhận ra đâu là kế hoạch Chúa dành cho
đời tôi. Chúa sẽ không chỉ cho tôi thấy mọi nơi chốn, thời gian và chi tiết,
tôi sẽ phải khôn ngoan chọn lựa. Nhưng Chúa sẽ chỉ cho tôi một hướng đi cho đời
tôi, vì Chúa là Đấng dựng nên tôi, là thợ gốm nặn ra tôi, và tôi cần lắng nghe
Chúa để Ngài nắn đúc và tác tạo. Như thế tôi sẽ trở thành điều mà tôi phải là
và trung thành với sự thật của chính tôi.

257. Để thực hiện ơn gọi riêng của mình, chúng
ta cần phải phát huy, đẩy mạnh và làm tăng triển tất cả những gì là chính mình.
Đây không phải là phát minh, là sáng tạo con người mình một cách tự phát từ con
số không, nhưng là khám phá chính mình trong ánh sáng của Chúa và làm cho đời
sống mình sinh hoa kết quả. “Trong kế hoạch của Thiên Chúa, mỗi người đều được
kêu gọi phát triển chính mình, vì mọi cuộc sống đều là ơn gọi”. [140] Ơn gọi
của con hướng dẫn con phát huy điều hay nhất của mình để làm vinh danh Chúa và
mưu ích cho tha nhân. Vấn đề không chỉ là làm những công việc nào đó, nhưng là
làm các việc ấy với một ý nghĩa, với một định hướng. Về đề tài này, Thánh
Alberto Hurtado bảo các bạn trẻ phải hết sức nghiêm túc trong việc chọn hướng
đi: “Trên một con tàu, nếu người hoa tiêu chểnh mảng, anh sẽ bị sa thải ngay vì
đã đùa giỡn với điều rất thánh thiêng. Còn trong đời sống, chúng ta có tỉnh
thức về hướng đi của mình không? Đâu là hướng đi của bạn? Nếu cần dừng lại để
suy nghĩ thêm về điều này, tôi xin mỗi người trong các bạn suy nghĩ hết sức
nghiêm túc, vì đi đúng hướng là đã thành công; chệch hướng là đã thất bại rồi”.
[141]

258. Trong đời sống của mỗi người trẻ, việc ta
“sống vì người khác” thường gắn với hai vấn đề căn bản: tạo lập một gia đình
mới và làm việc. Các bản thăm dò giới trẻ nhiều lần xác nhận rằng đây là hai
vấn đề lớn làm cho họ vừa bận tâm vừa hứng thú. Hai vấn đề này phải được xem
xét cách đặc biệt. Chúng ta hãy lược qua từng vấn đề.

Tình yêu và gia đình

259. Người trẻ cảm thấy tiếng gọi của tình yêu
rất mãnh liệt; họ ước mơ gặp đúng người để xây dựng một gia đình và sống chung
với nhau. Rõ ràng đây là một ơn gọi mà chính Thiên Chúa kêu mời qua những tình
cảm, những khát vọng và những ước mơ của người trẻ. Về chủ đề này, cha đã nói
đầy đủ trong Tông huấn Amoris Laetitia
(Niềm Vui của Tình Yêu). Cha mời tất cả các bạn trẻ hãy đọc Chương Bốn và
Chương Năm của Tông huấn ấy.

260. Cha thích nghĩ rằng “Hai người Kitô hữu
kết hôn với nhau nhận ra nơi chuyện tình của mình lời mời gọi của Chúa, đó là
ơn gọi kết hợp hai người, một nam và một nữ thành một thân xác, một cuộc sống duy
nhất. Và bí tích Hôn nhân bao bọc tình yêu ấy bằng ân sủng của Thiên Chúa, làm
cho tình yêu ấy bén rễ trong chính Thiên Chúa. Với quà tặng này, với sự chắc
chắn của lời mời gọi này, họ có thể tiến bước trong bình an mà không sợ chi cả,
họ có thể cùng nhau đương đầu với mọi sự”. [142]

261. Trong bối cảnh này, cha nhắc lại rằng
Thiên Chúa dựng nên chúng ta như những hữu thể có giới tính. Chính Ngài “đã tạo
dựng tính dục, là quà tặng kỳ diệu cho các thụ tạo của Ngài”. [143] Trong ơn
gọi hôn nhân, chúng ta cần nhìn nhận và tạ ơn Chúa vì “tính dục, giới tính là
một quà tặng của Thiên Chúa. Chẳng có gì cấm kỵ. Đó là quà tặng của Thiên Chúa,
món quà Chúa dành cho chúng ta, với hai mục đích: yêu thương nhau và lưu truyền
sự sống. Đó là một đam mê, một tình yêu đam mê. Tình yêu đích thực thì đam mê.
Tình yêu giữa một người nam và một người nữ, khi đam mê, sẽ dẫn con tới việc
trao ban sự sống. Luôn luôn là thế. Và trao ban sự sống với cả thân xác và linh
hồn”. [144]

262. Thượng Hội đồng nhấn mạnh rằng “Gia đình
tiếp tục là điểm tham chiếu chính yếu cho giới trẻ. Con cái quý trọng tình
yêu và sự quan tâm của cha mẹ, họ tha thiết với các mối liên hệ gia đình và
hy vọng, đến lượt mình, họ cũng lập nên được một gia đình. Không thể phủ
nhận rằng tình trạng gia tăng ly thân, ly dị, tái hôn và gia đình cha hoặc
mẹ đơn thân, có thể gây ra những đau khổ lớn lao và một cuộc khủng hoảng
căn tính nơi con cái. Đôi khi con cái phải gánh vác những trách nhiệm không
tương xứng với tuổi của mình và buộc họ trở thành người lớn trước tuổi. Sự
đóng góp của bậc ông bà về mặt tình cảm và trong lĩnh vực giáo dục tôn
giáo thường mang tính quyết định: sự khôn ngoan của tuổi tác khiến ông bà
là mối dây liên kết chính trong tương quan giữa các thế hệ”.[145]

263. Quả thật những khó khăn mà người trẻ phải
gánh chịu trong gia đình mà họ sinh trưởng đã khiến nhiều người trẻ tự hỏi rằng
liệu có đáng để lập gia đình hay không, có đáng để chung thuỷ và quảng đại hay
không. Cha muốn nói với các bạn ấy rằng chắc chắn là rất đáng. Thật đáng để
dành mọi công sức cho gia đình; ở đó họ sẽ tìm thấy những động lực tốt nhất để
trưởng thành và tìm thấy những niềm vui đẹp nhất để chia sẻ. Các con đừng để
mình bị tước mất tình yêu thực sự. Đừng để mình bị lừa phỉnh bởi những kẻ rủ rê
sống cuộc đời bê tha theo chủ nghĩa cá nhân mà cuối cùng chỉ dẫn tới cô lập và
cô đơn.

264. Ngày nay, nền văn hoá đang thống trị là
nền văn hoá của cái phù du, ảo tưởng. Tin rằng chẳng có gì mang tính quyết định
là một điều lừa phỉnh và dối trá. “Có những người bảo rằng hôn nhân ngày nay là
chuyện “lỗi thời” […] Trong một nền văn hoá của cái phù du và tương đối, nhiều
người rao giảng rằng điều quan trọng là “hưởng thụ” khoảnh khắc hiện tại, rằng
thật không đáng để giao ước suốt đời, để quyết định dứt khoát […] Còn cha, trái
lại, cha kêu gọi các con hãy trở thành những nhà cách mạng, cha kêu gọi các con
hãy lội ngược dòng; phải, cha muốn các con hãy phản kháng nền văn hoá của cái
phù du này, một nền văn hoá không tin rằng các con có đủ khả năng lãnh trách nhiệm,
có đủ khả năng yêu thương thực sự”.[146] Cha tin tưởng các con, và vì thế cha
khuyến khích các con lựa chọn sống đời hôn nhân.

265. Cần phải chuẩn bị cho hôn nhân, và điều
này đòi hỏi phải tự huấn luyện mình, phát huy những đức tính tốt, nhất là yêu thương,
nhẫn nại, khả năng đối thoại và phục vụ. Điều này cũng đòi phải giáo dục về
tính dục, để càng ngày càng bớt trở thành phương tiện lợi dụng tha nhân, và
càng ngày càng thêm khả năng hiến mình hoàn toàn cho một người khác, một cách
độc hữu và quảng đại.

266. Các giám mục Colombia đã viết: “Đức Kitô
biết rằng vợ chồng thì không hoàn hảo và họ cần vượt lên những yếu đuối và sự
thiếu chung thủy, để tình yêu của họ có thể lớn lên và bền vững. Vì thế, Người
ban cho họ ân sủng của Người, đó vừa là ánh sáng vừa là sức mạnh giúp họ sống
đời sống hôn nhân của mình theo kế hoạch của Thiên Chúa”. [147]

267. Đối với những ai không được kêu gọi sống
đời sống hôn nhân hay đời sống thánh hiến, phải luôn nhớ rằng ơn gọi đầu tiên
và quan trọng nhất là ơn gọi của bí tích Thánh tẩy. Những người độc thân, dù đó
không phải là chủ ý chọn lựa của họ, có thể trở nên một chứng tá đặc biệt của
ơn gọi ấy bằng con đường trưởng thành thiêng liêng của riêng mình.

Việc làm

268. Các giám mục ở Hoa Kỳ đã nhấn mạnh rõ
ràng rằng “dấu hiệu của tuổi trưởng thành thường là khi người ta bắt đầu đi
làm. ‘Bạn làm nghề gì?’ là một đề tài thường xuyên trong các cuộc trò chuyện,
vì việc làm là điều rất quan trọng trong cuộc sống của người trẻ. Đối với người
bắt đầu trưởng thành, kinh nghiệm này rất hay thay đổi vì họ chuyển từ công
việc này sang công việc khác, và thậm chí từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác.
Việc làm có thể quy định họ dùng thời gian như thế nào và có thể quyết định họ
làm được gì hay sắm được gì. Việc làm còn có thể ấn định phẩm chất và số lượng
thời gian rảnh rỗi. Việc làm xác định và ảnh hưởng đến căn tính và ý thức về
chính mình của một người trẻ, đồng thời là nơi chủ yếu để phát triển tình bằng
hữu và các mối tương quan khác, bởi vì nói chung người ta không làm việc một
mình. Các bạn trẻ nam cũng như nữ nói về việc làm như là sự chu toàn một phận
vụ và như một điều gì đó đem lại ý nghĩa. Việc làm giúp cho người trẻ đáp ứng
được các nhu cầu thực tiễn của mình nhưng hơn nữa, còn giúp họ tìm kiếm ý nghĩa
và thực hiện các giấc mơ và viễn ảnh của mình. Mặc dù việc làm có thể không
giúp cho những giấc mơ của người trẻ thành tựu, nhưng điều quan trọng là họ
phải nuôi dưỡng một viễn ảnh, học hỏi làm việc theo một cách thức thực sự mang
tính cá vị và tốt đẹp cho đời sống, cũng như tiếp tục phân định tiếng gọi của
Thiên Chúa”. [148]

269. Cha kêu gọi các bạn trẻ đừng mong sống mà
không làm việc, dựa vào sự giúp đỡ của người khác. Điều đó không tốt, vì “việc
làm là điều cần thiết, nó nằm trong ý nghĩa của đời sống trên mặt đất này, là
con đường để trưởng thành, để phát triển nhân bản và hoàn thành con người mình.
Theo nghĩa này, việc giúp đỡ người nghèo về tiền bạc phải luôn là một giải pháp
tạm thời trong những trường hợp cấp bách”.[149] Vì thế, “linh đạo Kitô giáo,
cùng với sự chiêm ngắm đầy ngưỡng mộ trước các thụ tạo mà chúng ta gặp thấy nơi
Thánh Phanxicô Assisi, cũng đã phát triển một sự hiểu biết phong phú và quân
bình về lao động, chẳng hạn như nơi cuộc đời Chân phước Charles de Foucauld và
các môn đệ của ngài”. [150]

270. Thượng Hội đồng nhấn mạnh rằng thế giới
lao động là nơi người trẻ “trải nghiệm tình trạng bị loại trừ và bị gạt ra
lề. Đáng nói nhất và nghiêm trọng nhất là tình trạng thất nghiệp nơi giới
trẻ; ở một số quốc gia, tỷ lệ này cao đến mức báo động. Thất nghiệp không
chỉ khiến người trẻ trở nên nghèo, tình trạng này còn tước đi của họ
quyền được mơ ước và hy vọng, đồng thời cũng lấy mất của họ cơ hội góp
phần làm cho xã hội phát triển. Trong nhiều quốc gia, nguyên nhân của tình
trạng này là do một số thành phần trẻ thiếu khả năng chuyên môn thích hợp,
đặc biệt là vì hệ thống giáo dục và đào tạo còn nhiều bất cập. Thường
tình trạng bấp bênh về lao động của giới trẻ lại thỏa mãn khát vọng
của những nhóm lợi ích kinh tế muốn bóc lột lao động” [151].

271. Đây là một vấn đề rất tế nhị phải được
các nhà chính trị quan tâm hàng đầu, nhất là hiện nay, khi mà sự phát triển
nhanh chóng của công nghệ cùng với nỗi ám ảnh giảm chi phí nhân công có thể
nhanh chóng dẫn đến việc dùng máy móc thay thế con người trong nhiều công việc.
Đây là một vấn đề xã hội cơ bản, vì đối với một người trẻ, việc làm không đơn
thuần chỉ là để kiếm tiền, mà là một thể hiện phẩm giá con người, một con đường
để trưởng thành và hội nhập xã hội. Việc làm là một động lực thường xuyên giúp
phát triển tinh thần trách nhiệm và khả năng sáng tạo, bảo vệ chống lại xu
hướng của chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ. Việc làm còn là một hành vi tạ ơn
Chúa bằng cách phát huy các khả năng riêng của mình.

272. Không phải lúc nào người trẻ cũng có thể
quyết định mình sẽ dốc sức làm gì, sẽ sử dụng nghị lực và khả năng sáng tạo của
mình vào những công việc gì. Bởi vì, ngoài những mong muốn, và cả những khả
năng và những lựa chọn của họ đã được nhìn nhận, còn có những hạn chế khắc
nghiệt của thực tế. Quả thực con không thể sống mà không làm việc, và đôi khi
con phải chấp nhận công việc con đang làm, nhưng con đừng bao giờ từ bỏ ước mơ,
đừng bao giờ vùi lấp hẳn một tiếng gọi, và đừng bao giờ chịu thua. Hãy cứ tiếp
tục tìm cách sống điều mà con đã phân định và nhận ra đó là ơn gọi thực sự của
con, ít là một phần nào đó.

273. Khi chúng ta khám phá rằng Thiên Chúa kêu
gọi chúng ta làm điều gì đó, rằng chúng ta sinh ra để làm điều ấy – làm điều
dưỡng, hay thợ mộc, hoặc làm việc trong ngành truyền thông, sư phạm, mỹ thuật,
hay bất cứ loại công việc nào khác – thì chúng ta sẽ có thể phát huy những khả
năng tốt nhất của mình để hy sinh, quảng đại và cống hiến. Biết rằng chúng ta
không làm việc mà chẳng có lý do gì, nhưng việc làm có một ý nghĩa, đó là lời
đáp lại một tiếng gọi âm vang trong sâu thẳm hữu thể của mình, để mang lại điều
gì đó cho tha nhân: như thế việc làm đem đến cho tâm hồn ta một cảm nghiệm được
mãn nguyện. Như lời trong Sách Giảng viên của Cựu Ước: “Tôi thấy rằng không có
gì tốt hơn là tận hưởng niềm vui nơi công việc của mình” (3,22).

Các ơn gọi thánh hiến đặc
biệt

274. Nếu chúng ta xác tín rằng Chúa Thánh Thần
vẫn khơi dậy những ơn gọi linh mục và tu sĩ, chúng ta có thể một lần nữa nhân
danh Chúa mà hoàn toàn tin tưởng “thả lưới”. Chúng ta có thể dám, và chúng ta
phải làm điều này: bảo mỗi người trẻ hãy tự hỏi xem mình có thể đi theo con
đường ấy không.

275. Có khi cha đề nghị với các bạn trẻ điều
ấy, và họ hóm hỉnh trả lời: “Không, chắc là con sẽ không theo con đường ấy
đâu!” Thế mà mấy năm sau, có vài người trong số họ lại vào Chủng viện. Chúa
không thể thất hứa, Ngài không để cho Hội Thánh thiếu mục tử, mà nếu không có
các vị ấy thì Hội Thánh không thể sống và thi hành sứ mạng của mình. Và giả như
có một số linh mục đã không sống chứng tá tốt, thì không phải vì thế mà Chúa
không kêu gọi nữa. Trái lại, Ngài kêu gọi gấp đôi, vì Ngài không ngừng chăm sóc
Hội Thánh yêu dấu của Ngài.

276. Trong việc phân định ơn gọi, không được
loại trừ khả năng dâng hiến cho Thiên Chúa trong chức linh mục, trong đời sống
tu sĩ hay trong các hình thức thánh hiến khác. Sao lại loại trừ? Con hãy tin
chắc rằng nếu con nhận ra tiếng Chúa gọi và đi theo, thì tiếng gọi ấy sẽ làm
cho con thoả nguyện.

277. Đức Giêsu đang bước đi giữa chúng ta, như
Người đã bước đi ở Galilê. Người bước đi trên các đường phố của chúng ta, Người
dừng lại, nhìn vào mắt chúng ta, không vội vã. Tiếng gọi của Người đầy lôi cuốn
và hấp dẫn. Nhưng ngày nay, mối lo âu và nhiều quyến rũ dồn dập tấn công chúng
ta khiến không còn chỗ cho sự thinh lặng nội tâm để chúng ta có thể nhận ra ánh
nhìn của Đức Giêsu và nghe được tiếng gọi của Người. Cùng lúc ấy, con sẽ nhận
được nhiều đề nghị được tô vẽ. Những đề nghị ấy xem ra thật đẹp và gây phấn
khích, nhưng rồi chúng sẽ chỉ để lại cho con cảm giác trống rỗng, mệt mỏi và cô
đơn mà thôi. Đừng để điều này xảy ra với con, vì cơn lốc của thế giới này sẽ
đẩy con vào một con đường điên rồ, không định hướng, không có những mục tiêu rõ
ràng, và như thế những nỗ lực của con sẽ thành ra vô ích. Nhưng con hãy tìm nơi
yên tĩnh và thinh lặng để suy tư, cầu nguyện, nhìn kỹ thế giới quanh con, và
rồi, cùng với Đức Giêsu, con sẽ nhận ra ơn gọi của mình trong thế giới này.

 

CHƯƠNG CHÍN

PHÂN ĐỊNH

278. Về sự phân định nói chung, tôi đã đề cập
đến trong Tông huấn Gaudete et Exsultate.
Giờ đây tôi muốn lặp lại một số những suy tư này, để áp dụng vào việc phân định
ơn gọi của chúng ta trong thế giới.

279. Tôi nhắc lại rằng tất cả mọi người, nhưng
“nhất là người trẻ, thường xuyên phải tiếp xúc với thứ văn hoá zapping (Chú thích của người dịch: “zapping” là động tác dùng bộ điều khiển
từ xa để bấm chuyển kênh truyền hình liên tục mà không chú tâm). Chúng ta có
thể vừa lướt xem hai hoặc ba màn hình, đồng thời lại vừa tương tác với các
khung cảnh ảo khác. Nếu không biết khôn ngoan phân định, chúng ta có thể dễ
dàng trở thành những con rối phó mặc cho những trào lưu chóng qua”[152]. Và
“điều này càng quan trọng hơn khi có điều gì đó mới mẻ xuất hiện trong đời sống
chúng ta, bấy giờ chúng ta phải phân định xem liệu đó có phải là rượu mới do
Thiên Chúa đem đến hay chỉ là một ảo ảnh lừa dối bởi tinh thần thế gian hoặc
tinh thần của ma quỷ”. [153]

280. Sự phân định này, “mặc dù bao gồm cả lý
trí và sự khôn ngoan, nhưng lại vượt quá những yếu tố ấy bởi vì nó cố tìm gặp
mầu nhiệm kế hoạch duy nhất và độc đáo mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng
ta … Nó liên hệ đến cuộc sống của tôi trước mặt Chúa là Cha, Đấng biết tôi và
yêu tôi, đến ý nghĩa thực sự của đời tôi mà không ai biết rõ hơn là chính Chúa”
[154].

281. Trong bối cảnh này, việc huấn luyện
lương tâm sẽ giúp cho sự phân định phát triển theo chiều sâu và trung thành với
Thiên Chúa. “Huấn luyện lương tâm là một tiến trình của cả đời người,
trong đó ta học trau dồi cảm xúc để có cùng một tâm tình như Chúa Giêsu
Kitô, học tuân theo cùng những tiêu chuẩn lựa chọn và những chủ ý hành động
của Người (x. Pl 2,5)” [155].

282. Việc huấn luyện này bao hàm để cho Chúa
Kitô biến đổi mình, đồng thời đó là “một thói quen làm điều thiện, kiểm điểm
lại việc thực hành này khi xét mình: việc làm này không chỉ nhằm
nhìn ra tội của mình, mà còn nhằm nhận ra hoạt động của Thiên Chúa
trong kinh nghiệm đời mình hằng ngày, trong các biến cố lịch sử và những
nền văn hoá mình đang sống, trong chứng tá của biết bao người đi trước ta
hoặc đang vận dụng khôn ngoan để đồng hành với ta. Tất cả những điều này
giúp ta lớn lên trong nhân đức khôn ngoan, bằng cách dựa trên những chọn lựa
cụ thể, với ý thức một cách thanh thản về những ơn ban và những giới hạn
của mình để đưa ra một định hướng chung cho đời mình”. [156]

Làm thế nào để phân định ơn
gọi

283. Một thể hiện của sự phân định là nỗ lực
để nhận ra ơn gọi của riêng mình. Đó là một công việc đòi hỏi phải có nơi cô
tịch và tĩnh lặng, vì đó là một quyết định rất cá nhân mà người khác không thể
làm thay được: “Dù cho Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách, tại nơi làm việc,
qua những người khác và vào bất cứ lúc nào, chúng ta không thể bỏ qua cầu
nguyện thinh lặng lâu giờ vốn có thể giúp chúng ta nhận rõ hơn tiếng nói của
Chúa, để hiểu ý nghĩa thực sự của những linh hứng mà chúng ta tin rằng mình đã
tiếp nhận, để xoa dịu những lo âu và để tái tạo toàn bộ cuộc sống của mình cách
mới mẻ trong ánh sáng của Chúa”. [157].

284. Sự im lặng này không phải là một hình
thức cô lập, vì “cần nhớ rằng việc phân định trong cầu nguyện phải được khởi đi
từ thái độ sẵn sàng lắng nghe Chúa, nghe người khác, và nghe chính thực tại,
vốn luôn chất vấn chúng ta theo một cách mới mẻ. Chỉ những ai sẵn sàng lắng
nghe mới có tự do để chối từ quan điểm phiến diện và không đầy đủ của mình
[…]. Như thế, chúng ta thực sự mở ra để đón nhận một tiếng gọi có thể phá vỡ
sự an toàn của mình, nhưng dẫn ta đến một cuộc sống tốt đẹp hơn, bởi lẽ nếu mọi
sự đều ổn thoả và bình an thì vẫn chưa đủ. Thiên Chúa có thể đang trao ban cho
chúng ta một cái gì đó hơn thế, mà nếu thiếu chú tâm, chúng ta không nhận ra
được”. [158]

285. Về việc phân định ơn gọi của riêng mình,
cần phải tự đặt ra một số câu hỏi. Đừng bắt đầu bằng câu hỏi: có thể kiếm được
nhiều tiền nhất ở đâu, hoặc ở đâu có thể có được sự nổi tiếng và uy tín xã hội
nhất, hay công việc nào đem lại nhiều thích thú hơn. Để tránh nhầm lẫn,
phải bắt đầu từ chỗ khác, và tự hỏi: Tôi có biết bản thân mình, ngoài vẻ bề
ngoài và cảm giác của tôi không? Tôi có biết điều gì làm trái tim tôi vui hay
buồn không? ; điểm mạnh và điểm yếu của tôi là gì? Những câu hỏi khác sẽ lập
tức theo sau: làm thế nào tôi có thể phục vụ tốt hơn và hữu ích hơn cho thế
giới và Hội Thánh? đâu là chỗ đứng của tôi trên trái đất này? ; tôi có thể cống
hiến điều gì cho xã hội? ; rồi đến những câu hỏi khác rất thực tế: tôi có khả
năng cần thiết cho công việc phục vụ này không? ; hoặc tôi có thể phát triển các
kỹ năng cần thiết hay không?

286. Những câu hỏi này phải được đặt ra không
phải trong tương quan với chính mình và những khuynh hướng của bản thân mình,
nhưng trong tương quan với những người khác, đối diện với họ, làm sao để sự
phân định đặt cuộc sống của chính mình đối chiếu với người khác. Vì thế, cha
muốn nhắc lại câu hỏi quan trọng là: “Biết bao lần trong đời, chúng ta đã lãng
phí thời gian để tự hỏi: Tôi là ai? Nhưng con có thể tự hỏi mình là ai và mất
cả đời để tìm xem mình là ai. Con nên tự hỏi như thế này thì hơn: ‘Tôi
sống vì ai vậy?’” [159] Con sống
cho Chúa, chắc chắn rồi! Nhưng Ngài muốn con cũng sống cho người khác nữa, và
Ngài đã phú cho con rất nhiều phẩm chất, khuynh hướng, ơn huệ và đặc sủng không
phải dành cho con, mà dành cho những người khác.

Tiếng gọi của Người Bạn

287. Để phân định ơn gọi của riêng mình, ta
phải nhận ra rằng ơn gọi này là tiếng gọi của một người bạn: đó là Chúa Giêsu.
Nếu phải tặng bạn mình cái gì, ta sẽ tặng cái tốt nhất. Và cái tốt nhất ấy
không nhất thiết phải là món đắt nhất hay khó kiếm nhất, nhưng là cái mà ta
biết sẽ mang lại niềm vui cho bạn. Ta sẽ cảm nhận được điều này rõ ràng đến mức
có thể hình dung trong trí tưởng tượng nụ cười của bạn mình khi người ấy mở
quà. Sự phân định của tình bằng hữu này là điều cha đề nghị với những người trẻ
như một kiểu mẫu nếu họ muốn tìm biết đâu là ý Chúa muốn đối với cuộc đời của
họ.

288. Cha muốn người trẻ biết rằng khi Chúa
nghĩ đến mỗi người, với điều Ngài muốn ban cho người ấy, thì Ngài nghĩ đến
người ấy như một người bạn riêng của Ngài. Và nếu Chúa định ban cho con một ơn,
một đặc sủng để con sống trọn vẹn đời mình và biến đổi con thành một người có
ích cho người khác, một người ghi dấu trong lịch sử, thì chắc chắn đó sẽ là
điều làm cho con vui sướng tận đáy lòng và làm cho con say mê hơn bất cứ thứ gì
khác trong đời. Không phải vì Chúa ban cho con một đặc sủng phi thường hay hiếm
có, nhưng là bởi vì ơn ấy phù hợp với con, với cả cuộc đời của con.

289. Chắc chắn ơn kêu gọi là một ơn kèm theo
những đòi hỏi. Ơn Chúa ban có tính tương tác và để ơn ấy sinh ích cho con, con
phải bỏ nhiều công sức, phải mạo hiểm. Nhưng đó không phải là đòi hỏi của một
nghĩa vụ do người khác áp đặt từ bên ngoài, mà là điều gì đó thúc đẩy con lớn
lên và chọn lựa cho ơn ấy chín muồi, rồi trở thành một ơn huệ cho người khác
nữa. Khi Chúa khơi lên một ơn gọi, Ngài không chỉ nghĩ đến tình trạng hiện tại
của con, mà nghĩ đến tất cả những gì con sẽ có thể trở thành cùng với Ngài và
với những người khác.

290. Nơi người trẻ, sức sống và tính cách mạnh
mẽ vun đắp cho nhau và thúc đẩy người trẻ vượt qua mọi giới hạn. Do thiếu kinh
nghiệm nên điều này rất thường dẫn đến thương đau, cả khi nó nhanh chóng trở
thành một kinh nghiệm. Điều quan trọng là phải nối kết niềm khát khao “điều vô
biên ban đầu chưa được thử thách” này [160] với tình bạn vô điều kiện mà Chúa
Giêsu ban cho chúng ta. Còn hơn cả lề luật và nghĩa vụ, điều Chúa Giêsu muốn
chúng ta lựa chọn là đi theo Người, như những người bạn đi theo nhau, tìm kiếm
nhau rồi gặp gỡ nhau chỉ vì tình bạn. Mọi thứ khác sẽ đến sau, và ngay cả những
thất bại của cuộc sống cũng có thể là một trải nghiệm vô giá về tình bạn này
vốn chẳng bao giờ tan vỡ.

Lắng nghe và đồng hành

291. Có những linh mục, tu sĩ, giáo dân, những
nhà chuyên môn và cả những người trẻ được đào tạo, họ có thể đồng hành với
người trẻ trong việc phân định ơn gọi. Khi chúng ta có nhiệm vụ giúp người khác
phân định đường đời của họ, điều đầu tiên là lắng nghe. Việc lắng nghe gồm ba
loại nhạy cảm hoặc quan tâm khác nhau và bổ sung cho nhau:

292. Loại nhạy
cảm thứ nhất
là về con người. Đây
là vấn đề lắng nghe người khác nói với chúng ta để thổ lộ chính mình. Dấu hiệu
của sự lắng nghe này là thời gian tôi dành cho người ấy. Không phải vấn đề là
dành thời gian bao lâu, mà là người ấy cảm thấy rằng thời gian của tôi là của
họ: đó là điều người ấy cần để nói những gì muốn nói. Người ấy phải cảm thấy
rằng tôi đang lắng nghe vô điều kiện, không cáu kỉnh, không nổi nóng, không tỏ
vẻ buồn chán hay mệt mỏi. Đó là cách lắng nghe mà Chúa đã làm khi Người sánh
bước với các môn đệ Emmau và đồng hành cùng họ một thời gian dài trên con đường
ngược chiều với hướng đúng (x. Lc
24,13-35). Khi Chúa Giêsu làm cử chỉ tiếp tục đi vì họ đã đến nhà, lúc ấy họ
hiểu rằng Người đã cho họ thời gian của Người, thế là họ lại cho Người thời
gian của họ, bằng cách mời Người ở lại. Sự lắng nghe chăm chú và vô cầu này là
dấu chỉ cho thấy chúng ta tôn trọng người khác, cho dù họ có những suy nghĩ và
lựa chọn gì trong cuộc sống.

293. Loại nhạy
cảm thứ hai
phân định. Đây là
vấn đề nắm bắt được thời điểm chính xác chúng ta nhận ra ân sủng hay cám dỗ.
Bởi vì đôi khi những điều xuất hiện trong trí óc của chúng ta chỉ là những cám
dỗ lái chúng ta đi chệch khỏi con đường thực sự của mình. Ở đây, tôi phải tự
hỏi chính xác người này đang nói gì với tôi, họ muốn nói gì với tôi, họ muốn
tôi hiểu gì về những gì đang diễn ra. Hỏi những câu như thế sẽ giúp tôi trân
trọng suy nghĩ của người ấy và những tác động của nó đối với những cảm xúc của
người ấy. Việc lắng nghe này nhằm phân định những lời cứu rỗi của Thần trí tốt
lành, là Đấng ban cho chúng ta sự thật của Chúa, nhưng cũng phân định cả những
cạm bẫy của thần trí xấu xa – những sai lầm và quyến rũ của nó. Cần phải có
lòng can đảm, sự dịu dàng và sự tế nhị cần thiết để giúp người kia nhận ra sự
thật cùng những dối trá hay những viện cớ.

294. Loại nhạy
cảm thứ ba
nhằm lắng nghe những thúc
đẩy
“tiến tới” mà người khác đang cảm nhận. Đó là lắng nghe thật kỹ “điều
mà người ấy thực sự muốn hướng đến”. Ngoài những gì người ấy cảm nhận và suy
nghĩ lúc này, những gì người ấy đã làm trong quá khứ, phải chú ý đến những gì
người ấy muốn trở thành. Đôi khi điều này đòi hỏi người ấy không được tập trung
nhiều vào những gì mình thích, những ham muốn hời hợt của mình, nhưng là những
gì làm Chúa hài lòng hơn, kế hoạch của Chúa dành cho cuộc đời của người ấy được
biểu lộ trong một khuynh hướng của tâm hồn, vượt ra ngoài vỏ bọc của thị hiếu
và cảm xúc. Sự lắng nghe này là chú ý đến ý hướng sau cùng, ý hướng quyết định
dứt khoát cuộc sống, bởi vì có một Người như Chúa Giêsu nghe và lượng giá ý
hướng tối thượng này của con tim. Đó là lý do tại sao phải luôn sẵn sàng giúp
cho mỗi người nhận ra điều đó, và để làm được điều đó chỉ cần thưa với Chúa:
“Lạy Chúa, xin cứu con! Xin thương xót con!”

295. Như vậy, phân định trở nên một phương thế
của cuộc chiến thiêng liêng giúp chúng ta đi theo Chúa cách trung thành hơn.
[161] Theo cách này, ước muốn nhận ra ơn gọi của riêng mình là hết sức mãnh liệt,
có một phẩm chất khác biệt và ở một bình diện cao hơn, niềm mong ước ấy xứng
với phẩm giá cuộc sống của chính chúng ta hơn nhiều. Bởi vì cuối cùng sự phân
định tốt là một con đường của tự do, làm xuất hiện điều độc đáo của mỗi người,
điều thực sự là mình, thực sự cá vị, mà chỉ có Chúa mới biết. Những người khác
không thể hiểu hết được và cũng không thấy được điều ấy sẽ phát triển như thế
nào vì chỉ nhìn từ bên ngoài.

296. Vì thế, khi lắng nghe một người theo cách
này, vào một thời điểm đã định, người ta phải biến đi để cho người ấy tiếp tục
con đường mà họ đã khám phá. Biến đi như Chúa đã biến mất trước mắt các môn đệ
và để họ ở lại với con tim bừng cháy rồi trở thành động lực không thể cưỡng lại
thúc đẩy họ lên đường (x. Lc 24,
31-33). Khi trở về gặp cộng đoàn, hai môn đệ Emmau được tin xác nhận rằng Chúa
đã sống lại thật (x. Lc 24,34).

297. Vì “thời gian quan trọng hơn không gian”
[162], nên cần phải khơi gợi và đồng hành, chứ không áp đặt các lộ trình. Và đó
là những lộ trình của những con người vốn luôn độc đáo và tự do. Đó là lý do
tại sao rất khó đặt ra các quy tắc, ngay cả khi tất cả các dấu hiệu đều tích
cực, bởi vì “điều quan trọng là phải đưa chính những yếu tố tích cực ấy ra để
phân định một cách cẩn thận, để đừng tách biệt yếu tố này ra khỏi yếu tố kia và
đừng đặt chúng đối lập với nhau, như thể chúng là những yếu tố tuyệt đối trái
ngược nhau. Đối với các yếu tố tiêu cực cũng vậy: đừng loại bỏ toàn bộ các yếu
tố ấy mà không phân biệt, bởi vì nơi mỗi một yếu tố tiêu cực có thể tiềm ẩn một
giá trị cần được cứu vãn và cần được trả về trong chân lý toàn diện” [163].

298. Nhưng để đồng hành cùng những người khác
trên con đường này, trước tiên con phải có thói quen tự mình bước đi. Đức Maria
đã làm như thế, bằng cách đối mặt với những vấn đề và những khó khăn của chính
mình khi Mẹ còn rất trẻ. Xin Mẹ làm mới tuổi trẻ của con nhờ sức mạnh của lời
cầu nguyện và xin Mẹ luôn đồng hành với con qua sự hiện diện của Mẹ.

* * *

Và để kết thúc… một mong
ước

299. Các bạn trẻ thân mến, cha sẽ vui mừng khi
thấy các con chạy nhanh hơn những người chậm chạp và rụt rè. Các con cứ chạy,
vì “được Tôn nhan đáng yêu thu hút, Đấng mà chúng ta tôn thờ trong Thánh Thể và
nhận ra Ngài nơi thân mình của người anh em đau khổ. Xin Chúa Thánh Thần thúc
đẩy các con trong hành trình tiến về phía trước. Hội Thánh đang cần đà tiến của
các con, cần những trực giác và đức tin của các con. Và khi các con đến nơi mà
chúng tôi chưa đến, các con hãy kiên nhẫn chờ đợi chúng tôi” [164].

Ban hành tại Loreto, gần Đền
Thánh Nhà thánh,

ngày 25 tháng Ba, đại lễ
Truyền tin của Chúa, năm 2019,

năm thứ bảy triều giáo hoàng
của tôi.

PHANXICÔ

–––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Phần Chú thích

 

Viết tắt:

VK: Văn kiện kết thúc Thượng Hội đồng Giám mục lần
thứ XV.

GLHTCG: Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo

EG: Đức Giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013): AAS 105 (2013)

LS: Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (24/05/2015): AAS 107 (2015)

AL: Đức Giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Hậu
Thượng Hội đồng Giám mục Amoris Laetitia
(19/03/2016): AAS 108 (2016)

GE: Đức Giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exsultate (19/03/2018).

Ibid. =
Ibidem:
Tài liệu vừa dẫn.

X. : Xem

––––––––––––––––––––––

[1] Từ Hy Lạp có nghĩa là “mới”, nhưng còn nghĩa khác là “trẻ”.

[2] Tự thuật X, 27: PL 32, 795.

[3] THÁNH IRÊNÊ, Adversus Hæreses,
22, 4: PG 7, 784.

[4] VK 60.

[5] GLHTCG, 515.

[6] Ibid., 517.

[7] Bài Giáo lý (27/06/1990), 2-3: Insegnamenti
13, 1 (1990), 1680-1681.

[8] AL 182.

[9] VK 63.

[10] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sứ điệp gửi Người trẻ (08/12/1965): AAS 58 (1966), 18.

[11] Ibid..

[12] VK 1.

[13] Ibid., 8.

[14] Ibid., 50.

[15] Ibid., 53.

[16] X. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế Tín lý về Mặc khải Dei Verbum, 8.

[17] VK 150.

[18] Huấn
từ cho Giới trẻ trong buổi Canh thức,
Ngày
Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV tại Panama
(26/01/2019): L’Osservatore Romano, 28-29/01/2019, 6.

[19] Lời nguyện kết thúc Đàng Thánh
giá, Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV tại Panama
(26/01/2019): L’Osservatore Romano, 27/01/2019, 6.

[20] VK 65.

[21] Ibid., 167.

[22] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Bài nói
chuyện
với Giới trẻ tại Torino (13/04/1980)
4: Insegnamenti 3, 1 (1980), 905.

[23] BÊNÊĐICTÔ XVI, Sứ điệp Ngày Giới
trẻ Thế giới lần thứ XXVII
(15/03/2012): AAS 194 (2012), 359.

[24] VK 8.

[25] Ibid..

[26] Ibid., 10.

[27] Ibid., 11.

[28] Ibid., 12.

[29] Ibid., 41.

[30] Ibid., 42.

[31] Bài nói chuyện với Giới trẻ tại
Manila
(18/01/2015): L’Osservatore
Romano
, 19-20/01/2015, 7.

[32] VK 34.

[33] Tài
liệu kết thúc Hội nghị Giới trẻ Tiền Thượng Hội đồng, chuẩn bị cho khoá họp
thường lệ lần thứ XV của Thượng Hội đồng Giám mục,
Roma (24/03/2018), I, 1.

[34] VK 39.

[35] Ibid., 37.

[36] X. LS 106.

[37] VK 37.

[38] Ibid., 67.

[39] Ibid., 21.

[40] Ibid., 22.

[41] Ibid., 23.

[42] Ibid., 24.

[43] Tài liệu kết thúc Hội nghị Giới
trẻ Tiền Thượng Hội đồng, chuẩn bị cho khoá họp thường lệ lần thứ XV của Thượng
Hội đồng Giám mục,
Roma (24/03/2018), I, 4.

[44] VK 25.

[45] Ibid..

[46] Ibid., 26.

[47] Ibid., 27.

[48] Ibid., 28.

[49] Ibid., 29.

[50] Diễn văn bế mạc Hội nghị về Bảo
vệ Trẻ vị thành niên trong Hội Thánh
(24/02/2019): L’Osservatore Romano, 25-26/02/2019, 10.

[51] VK 29.

[52] Thư gửi Dân Chúa (20/08/2018),
2: L’Osservatore Romano,
20-21/08/2018, 7.

[53] VK 30.

[54] Diễn văn Khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục
lần thứ XV
(03/10/2018): L’Osservatore
Romano
, 05/10/2018, 8.

[55] VK 31.

[56] Ibid..

[57] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế Mục vụ về Hội Thánh trong Thế giới
ngày nay Gaudium et Spes, 1.

[58] VK 31.

[59] Ibid..

[60] Diễn văn bế mạc Hội nghị về Bảo
vệ Trẻ vị thành niên trong Hội Thánh
(24/02/2019): L’Osservatore Romano, 25-26/02/2019, 11.

[61] FRANCISCO LUIS BERNÁRDEZ, “Soneto”, trong tập Cielo de tierra, Buenos Aires, 1937.

[62] GE 140.

[63] Bài giảng trong Thánh Lễ, Ngày
Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXI tại Krakow
(31/03/2016): AAS 108 (2016), 963.

[64] Diễn văn Khai mạc Ngày Giới trẻ
Thế giới lần thứ XXXIV tại Panama
(24/01/2019): L’Osservatore Romano, 26/01/2019, 12.

[65] EG 1

[66] Ibid.,
3.

[67] Huấn từ trong buổi Canh thức với
Giới trẻ,
Ngày Giới trẻ Thế giới lần
thứ XXXIV tại Panama (26/01/2019): L’Osservatore Romano,
28-29/01/2019, 6.

[68] Bài nói chuyện tại Cuộc Gặp gỡ
Giới trẻ trong thời gian Thượng Hội đồng Giám mục
(06/10/2018): L’Osservatore Romano, 8-9/10/2018, 7.

[69] BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông điệp Deus
Caritas Est
(25/12/2005), 1: AAS
98 (2006), 217.

[70] PEDRO ARRUPE, Enamórate.

[71] THÁNH PHAOLÔ VI, Huấn từ nhân Lễ
tuyên phong Chân phước Nunzio Sulprizio
(01/12/1963): AAS 56 (1964), 28.

[72] VK 65.

[73] Bài giảng trong Thánh lễ cho
Giới trẻ tại Sydney
(02/12/1970): AAS
63 (1971), 64.

[74] Tự thuật I, 1, 1: PL 32, 661.

[75] Thiên Chúa thì trẻ. Cuộc đối
thoại với Thomas Leoncini,
New York, Random House, 2018, 4.

[76] VK 68.

[77] Gặp gỡ Giới trẻ tại Cagliari (22/09/2013):
AAS 105 (2013), 904-905.

[78] Cinque pani e due pesci. Dalla
sofferenza del carcere una gioiosa testimonianza di fede
, Milano 2014, 20.

[79] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THỤY SĨ, Prendre
le temps: pour toi, pour moi, pour nous
, 02/02/2018.

[80] X. THÁNH TÔMA AQUINÔ, Summa
Theologiae
, II-II, q. 23, art. 1.

[81] Huấn từ cho các Tình nguyện viên của Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV tại
Panama
(27/01/2019): L’Osservatore
Romano,
28-29/01/2019, 11.

[82] THÁNH OSCAR ROMERO, Bài giảng
(06/11/1977)
trong Su Pensamiento, I-II,
San Salvador, 2000, tr. 312.

[83] Diễn văn Khai mạc Ngày Giới trẻ
Thế giới lần thứ XXXIV tại Panama
(24/01/2019): L’Osservatore Romano, 26/01/2019, 12.

[84] X. Gặp gỡ Giới trẻ tại Đền thánh
quốc gia ở Maipú, Santiago de Chile
(17/01/2018): L’Osservatore Romano, 19/01/2018, 7.

[85] X. ROMANO GUARDINI, Die
Lebensalter. Ihre ethische und pädagogische Bedeutung
, Würzburg, in lần thứ 3, 1955, 20.

[86] GE 11.

[87] Khúc Linh ca, Red. B,
Prologue, 2.

[88] Ibid., XIV-XV, 2.

[89] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC RWANDA, Thư
Hội đồng Giám mục Rwanda gửi các Kitô hữu trong Năm Ngoại thường về Hoà giải
,
Kigali (18/01/2018), 17.

[90] Lời chào mừng Giới trẻ của Cha
Félix Varela, Trung tâm Văn hoá Havana
(20/09/2015): L’Osservatore Romano, 21-22/09/2015, 6.

[91] VK 46.

[92] Huấn từ trong buổi Canh thức,
Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV
(26/01/2019); AAS 105 (2013), 663.

[93] Ustedes son la luz del mundo.
Diễn từ tại Cerro San Cristóbal, Chile, 1940.

[94] Bài giảng trong Thánh lễ, Ngày
Giới trẻ Thế giới lần thứ XXVIII tại Rio de Janeiro
(28/06/2013): AAS 105 (2013), 665.

[95] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC HÀN QUỐC, Thư
Mục vụ nhân Kỷ niệm 150 năm các Thánh Tử đạo trong Cuộc Khủng bố Byeong-in
(30/03/2016).

[96] X. Bài giảng trong Thánh lễ,
Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV tại Panama
(27/01/2019): L’Osservatore Romano, 28-29/01/2019,
12.

[97] “Lạy Chúa, xin làm cho con trở
thành khí cụ bình an của Chúa”
, lời kinh được cho là của thánh Phanxicô
Assisi.

[98] Huấn từ trong buổi Canh thức với
Giới trẻ, Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV tại Panama
(26/01/2019): L’Osservatore Romano, 28-29/01/2019,
6.

[99] VK 14.

[100] X. Thông điệp Laudato Si’
(24/05/2015), 145: AAS 107 (2015),
906.

[101] Sứ điệp video gửi đến Hội nghị
Thế giới về Giới trẻ bản xứ Panama
(17-21/01/2019): L’Osservatore Romano, 19/01/2019, 8.

[102] VK 35.

[103] X. Ad Adolescentes, I, 2:
PG 31, 566.

[104] X. La saggezza del tempo.
In dialogo con Papa Francesco sulle grandi questioni della vita
. A cura di
Antonio Spadaro, Venezia 2018.

[105] Ibid., 12.

[106] Ibid., 13.

[107] Ibid..

[108] Ibid..

[109] Ibid., 162-163

[110] EDUARDO PIRONIO, Thông điệp cho
Giới trẻ Argentina tại Hội nghị Giới trẻ Quốc tế tại Cordoba
,
(12-15/09/1985), 2.

[111] VK 123.

[112] Das Wesen des Christentums /
Die neue Wirklichkeit des Herrn
, Mainz, in lần thứ 7, 1991, 14.

[113] Số 165: AAS 105 (2013),
1089.

[114] Diễn từ trong chuyến viếng thăm
Casa Hogar del Buen Samaritano, Panama,
(27/01/2019): L’Osservatore Romano, 28-29/01/2019, 10.

[115] VK 36.

[116] X. Tông hiến Veritatis Gaudium
(08/12/2017), 4: AAS 110 (2018), 7-8.

[117] Diễn từ tại Cuộc Gặp gỡ Sinh
viên và Đại diện Giới Học Thuật ở Piazza San Domenico, Bologna

(01/10/2017): AAS 109 (2017), 1115.

[118] VK 51.

[119] Ibid., 47.

[120] Sermo 256, 3: PL 38, 1193.

[121] VK 47.

[122] Diễn văn trước Đoàn đại biểu
Olympics Quốc tế Đặc biệt (16/02/2017): L’Osservatore
Romano
, 17/02/2017, 8.

[123] Ad Adolescentes, VIII,
11-12: PG 31, 580.

[124] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC ARGENTINA, Declaración
de San Miguel
, Buenos Aires, 1969, X, 1.

[125] RAFAEL
TELLO, La nueva evangelización,
II (Appendices I and II), Buenos Aires, 2013, 111.

[126] X. EG 44-45.

[127] VK 70.

[128] Ibid., 117.

[129] Ibid., 4.

[130] EG 124.

[131] Ibid., 122: AAS 105 (2013), 1071.

[132] VK 9.

[133] Tài liệu kết thúc Hội nghị Giới
trẻ Tiền Thượng Hội đồng, chuẩn bị cho khoá họp thường lệ lần thứ XV của Thượng
Hội đồng Giám mục,
Roma (24/03/2018), 12.

[134] Ibid., 10.

[135] VK 15.

[136] GE 2.

[137] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế Tín lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 11.

[138] Huấn từ trong buổi Canh thức,
Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV tại
Panama
(26/01/2019): L’Osservatore
Romano
, 28-29/01/2019, 6.

[139] EG 273.

[140] THÁNH PHAOLÔ VI, Thông điệp Populorum
Progressio
(26/03/1967), 15: AAS
59 (1967), 265.

[141] Meditación de Semana Santa para
jóvenes
, viết tại nước ngoài trên chuyến tàu trở về từ Hoa Kỳ năm 1946
(https://www.padrealbertohurtado.cl/escritos-2/).

[142] Gặp gỡ giới trẻ Umbria tại
Assisi
(04/10/2013): AAS 105
(2013), 921.

[143] AL 150.

[144] Bài nói chuyện với Giới trẻ của Giáo phận Grenoble-Vienne
(17/09/2018): L’Osservatore Romano,
19/09/2018, 8.

[145] VK 32.

[146] Gặp gỡ các Tình nguyện viên,
Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXVIII tại Río de Janeiro
(28/07/2013): Insegnamenti 1, 2 (2013), 125.

[147] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC COLOMBIA, Mensaje
Cristiano sobre el matrimonio
(14/05/1981).

[148] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC HOA KỲ, Sons
and Daughters of Light: A Pastoral Plan for Ministry with Young Adults,
 12/11/1996,
Phần Một, 3.

[149] LS 128.

[150] Ibid., 125.

[151] VK 40.

[152] GE 167.

[153] Ibid., 168.

[154] Ibid., 170.

[155] VK 108.

[156] Ibid..

[157] GE 171.

[158] Ibid., 172.

[159] Huấn từ của ĐTC Phanxicô tại
buổi Canh thức cầu nguyện Chuẩn bị cho Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV
,
Vương cung thánh đường Đức Bà Cả (08/04/2017): AAS 109 (2017), 447.

[160] ROMANO GUARDINI, Die
Lebensalter. Ihre ethische und pädagogische Bedeutung
, Würzburg, in lần thứ
3, 1955, 20.

[161] X. GE 169.

[162] EG 222.

[163] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Giám mục Pastores Dabo Vobis (25/03/1992), 10, AAS 84 (1992), 672.

[164] Canh thức cầu nguyện
với Giới trẻ Italia tại Circus Maximus, Roma
(11 tháng Tám 2018): L’Osservatore Romano, 13-14/08/2018, 6.

Nguồn: hdgmvietnam.com

Tải file Word của Tông huấn Christus vivit – Chúa Kitô đang sống