T6, 11 / 2023 5:20 Chiều | Đức Tin Jesus

c) Quyền của linh mục chánh xứ :

Đức cha chánh quản trị địa phận với quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chiếu theo luật (Can 391,1), Linh mục Chánh xứ là cộng tác viên của ngài, không thể lập luật riêng cho giáo xứ mình, không thể ra án phạt và khấu trừ tội.

Linh mục Chánh xứ tự ý ra vạ phạt, không thành sự vì không có quyền. Người bị vạ phạt không mắc vạ, coi chừng người ra vạ lại mắc vì “bất cứ ai lạm dụng chức vụ trong Giáo hội thì bị vạ tương xứng” (Can 1381,1).

Linh mục Chánh xứ lãnh quyền do luật chung, luật riêng (Can 89) và những nố Đức Giám mục địa phận ủy cho: 

Quyền miễn chuẩn

1. Miễn chuẩn từng trường hợp một khỏi ăn chay, kiêng thịt, dự lễ Chúa nhật và lễ buộc, kiêng việc xác khi có lý do chính đáng do luật chung ban cho và quy luật của Đức Giám mục địa phận hướng dẫn (Can 1245).

Ban phép chuẩn chung kiêng việc xác… là thuộc quyền Đức Giám mục địa phận (Can 87,1). Năng quyền thập niên 70 ban phép cho tất cả linh mục nào đã nhận giáo phận hoặc giáo vụ được tha làm việc xác cho giáo hữu (tha cách chung và thường xuyên, nhưng không vĩnh viễn) trừ các lễ Phục sinh, Hiện xuống, Giáng sinh (số 18) còn giá trị.

2. Miễn chuẩn lời khấn tư (lời khấn không có Bề trên hợp pháp nhân danh Giáo hội chấp nhận) miễn là không phạm đến quyền lợi của người khác (Can 1196,1).

3. Miễn chuẩn ngăn trở hôn nhân trong trường hợp nguy tử và trường hợp hôn lễ đã sẵn sàng mà không dễ dàng chạy đến Đấng bản quyền địa phương (Can 1079,2).

Quyền giảng và Giải tội

-Có quyền ưng thuận hoặc từ chối linh mục hoặc phó tế giảng tại nhà thờ mình coi sóc (xem Can 764: Linh mục thủ từ, Quản đường cũng có quyền như vậy).

– Có quyền giải tội trong giáo xứ của mình (Can 968,1) (ở đây nói tới quyền do chức vụ, có tính đương nhiên, khác với ủy quyền, cho phép). Không có quyền từ chối linh mục khác đã lãnh quyền giải tội ngồi tòa trên phần đất của mình vì chỉ có Đấng bản quyền địa phương mới có quyền từ chối (Can 967,2) (tới nhà dòng thì theo luật chung của Giáo hội và hiến pháp nhà dòng).

Quyền ân bổng

– Hưởng trợ cấp của Tòa Giám mục (Can 281,1274).

– Được xin hưởng trợ cấp xã hội (Quỹ an ninh xã hội, nếu có) (Can 281,2). Bổng lễ và các bổng của tác vụ thánh khác theo mức độ của Tòa Giám mục ấn định (Can 952, 1 và 2).

– Của dâng cúng các dịp lễ. Dù Linh mục khác chu toàn nhiệm vụ nào trong giáo xứ thì các của dâng cúng nhận được trong dịp đó cũng phải bỏ vào quỹ nhà xứ trừ khi ý muốn người dâng tự ý tặng chủ lễ. Vấn đề này, sẽ theo qui luật Địa phận như một phần thù lao cho chủ lễ, một phần bỏ vào quỹ nhà xứ (Can 531).

d) Các nhiệm vụ của Linh mục Chánh xứ :

Các nhiệm vụ này phát xuất từ 3 chức vụ: 

– Rao giảng Lời Chúa.

– Cử hành các Bí tích, Á bí tích (thánh hóa).

– Hướng dẫn dân Chúa.

Xin kể ra đây mấy điểm: 

1/ Không được từ chối ban Bí tích: 

Thừa tác viên thánh không được khước từ ban Bí tích cho thụ nhận xin chịu trong lúc thuận tiện khi họ đã sẵn sàng và không bị luật cấm chịu (Can 843,1).

2/ Chọn giờ thuận tiện: 

Phải liệu giải tội cho tín hữu khi họ xin một cách hợp lý và phải định giờ giấc thuận lợi cho họ (Can 986,2).

Thuận lợi cho giáo dân hay linh mục? Giáo luật trả lời: thuận lợi cho giáo dân.

3/ Thánh lễ và rước lễ: 

Linh mục Chánh xứ phải liệu để phép Thánh Thể rất Thánh trở thành trung tâm của cộng đoàn tín hữu giáo xứ. Cố gắng cử hành các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể và giải tội thật sốt sắng để nuôi lòng đạo đức giáo dân. Làm sao cho giáo dân siêng năng cầu nguyện ở gia đình và ở nhà thờ, biết tham dự phụng vụ một cách có ý thức, linh động và hiệu quả (xem Can 528,2).

Về việc rước lễ, luật dạy “bất cứ ai đã rửa tội mà không bị luật cấm đều có thể và phải rước lễ” (Can 912).

Luật cấm người chưa chịu phép rửa tội, trẻ con dưới 7 tuổi, người bị bệnh tâm thần nặng, người bị vạ tuyệt thông và cấm chế mà án đã công bố và người cố tình sống công khai trong tình trạng tội nặng (trọng) (Can 97, 99, 914, 915).

Rước lễ là quyền của tín hữu, linh mục chủ lễ hoặc cha sở không có quyền định cho rước lễ trong Thánh lễ nào tùy ý. Khi thời giờ không cho phép, chủ lễ phải trình bày lý do “không cho tín hữu rước lễ” để mọi người vui vẻ, thông cảm. Chủ lễ hoặc cha sở chỉ có quyền từ chối những người bị lề luật cấm mà thôi.

4/ Chỉ lễ cho giáo dân

Sau khi nhận chức linh mục Chánh xứ phải chỉ lễ cho dân của ngài trong các Chúa nhật và các lễ buộc của địa phận. Khi bị ngăn trở hợp pháp, ngài phải nhờ linh mục khác chỉ lễ thay hoặc sẽ chỉ vào ngày khác. Buộc chỉ một lễ dầu làm nhiều lễ trong ngày đó. Coi sóc nhiều xứ cũng chỉ buộc chỉ một lễ cho tất cả các dân các xứ của ngài (Can 534). Chưa chu toàn thì phải làm sớm hết sức đủ số lễ phải chỉ cho dân (Can 534,3).

Tại nước ta, Thánh bộ Phúc âm hóa các Dân tộc dạy linh mục Chánh xứ chỉ lễ cho dân trong các ngày lễ: Hiển linh, Thánh cả Giuse, Phục sinh, Thăng thiên, Hiện xuống, Mình Máu Chúa Kitô, Thánh Phêrô và Phaolô, Đức Mẹ hồn xác lên trời, các Thánh nam nữ, Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội và Giáng sinh.

5. Cư trú tại Giáo xứ

Linh mục Chánh xứ phải cư trú tại nhà xứ gần nhà thờ. Nhưng trong trường hợp riêng, vì lý do chính đáng, Đấng bản quyền địa phương có thể cho phép ngài cư ngụ nơi khác, nhất là trong nhà tập thể linh mục, miễn là có thể chu toàn nhiệm vụ đối với giáo xứ cách đúng luật và thích hợp (Can 543,1).

6/ Được vắng mặt trong các trường hợp

– Nghỉ hè (nghỉ phép thường niên) 1 tháng.

– Đi tĩnh tâm thường niên.

– Vắng mặt vì lý do quan trọng khác.

Trong bất cứ trường hợp nào, vắng mặt trên một tuần, phải báo cho Đấng bản quyền địa phương biết (Can 533,2) để Đức Giám mục địa phận cắt cử linh mục tạm quản, nếu chưa có quy định của địa phận về vấn đề này (xem Can 533,3) (có thể nhờ một linh mục quen biết, hoặc linh mục phụ tá xứ tạm quản và trình Đấng bản quyền địa phương biết).

7/ Giữ sổ sách nhà xứ

Mỗi giáo xứ phải có sổ sách riêng, gồm có sổ rửa tội, hôn phối, sổ tử và các sổ khác chiếu theo quy định của Hội đồng Giám mục hoặc của Đức Giám mục địa phận. Linh mục Chánh xứ ghi sổ kỹ lưỡng và cất giữ cẩn thận (Can 535,1).

Luật lưu ý ghi thêm vào sổ rửa tội: 

– Thêm sức

– Hôn nhân với các tình trạng…

– Dưỡng tử (nếu có)

– Chức thánh đã lãnh nhận (Can 535,2).

8/ Giữ ấn tín và văn khố

Mỗi giáo xứ phải có “con dấu”. Các giấy chứng nhận được cấp chiếu theo luật Giáo hội và tất cả văn kiện có tầm quan trọng theo luật định, phải được linh mục Chánh xứ hoặc vị thừa ủy ký tên và đóng dấu (Can 535,3).

Theo luật nước ta, “con dấu tròn” dành cho các cơ quan nhà nước, các giáo xứ không thể sử dụng con dấu tròn như trước nữa. Vấn đề này cần có chỉ thị của Hội đồng Giám mục hoặc Đức Giám mục địa phận để có hình thức con dấu chung và hợp pháp.

9/ Mỗi giáo xứ cần có văn khố

Để lọt vào tay người “vô phận sự” các giấy tờ trên, Đức Giám mục địa phận có quyền đòi xem xét văn khố xem có tổ chức cẩn thận, chu đáo không (Can 535,4). Cũng phải giữ sách vở, sổ sách khác của giáo xứ cẩn thận (Can 535,5).

“Văn khố” của giáo xứ có thể là một vài tủ sách làm bằng gỗ rất bền vững, kín đáo, tránh được dán xâm nhập, mối mọt đục khoét, tránh mưa gió làm ẩm ướt, có khóa cẩn thận. 

LM FX. NGUYỄN HÙNG OÁNH TGP TPHCM