T2, 12 / 2020 4:24 Chiều | Đức Tin Jesus

 

 MỤC ĐỨC TIN

Nhận Định Về Phong Trào “Sứ Điệp Từ Trời”

Lm Giuse Lâm Văn Sỹ, OP.

Phong trào mệnh danh là “Sứ điệp từ trời” đã xuất hiện từ tháng 11 năm
2010 tại Châu Âu, và cho đến nay đã được quảng bá hầu như rộng khắp trên toàn
thế giới.

Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta đã nghe nói hoặc đã từng đọc qua các “Sứ điệp
từ trời”. Điều đó ít nhất cũng cho thấy tầm ảnh hưởng và tính chất thu hút của
phong trào mới này. Điều đáng nói là có nhiều người đã tin và đang góp phần quảng
bá cho các “Sứ điệp trời”. Riêng tại Việt Nam, phong trào “Sứ điệp từ trời”
cũng đang rộ lên như một hiện tượng đáng quan ngại. Tại nhiều giáo xứ, người ta
thấy xuất hiện các hội cầu nguyện Mân Côi, nhưng thực chất là hội quảng bá các
“Sứ điệp từ trời”. Điểm nổi bật của các hội này là thái độ chống Đức Giáo
hoàng, và đây cũng là một trong các chủ đề thường gặp trong các “Sứ điệp từ trời”.
Nhiều tín hữu đã “lỡ” đọc các “Sứ điệp từ trời” thì cảm thấy hoang mang vì rơi
vào cảnh “tiến thoái lưỡng nan”. Nếu không tiếp tục đọc thì sẽ có nguy cơ bị án
phạt như các sứ điệp đã đe dọa, còn nếu tiếp tục thì không biết các sứ điệp sẽ
dẫn mình tới đâu. Bởi vậy, sau khi đã tìm hiểu các “Sứ điệp từ trời” và tham khảo
một số bài viết được phổ biến trên mạng internet, chúng tôi muốn viết bài
nghiên cứu này như một sự góp phần soi sáng vấn đề, và cũng để cung cấp ít nhiều
tư liệu cho những vị có thẩm quyền hầu có thể thẩm định vấn đề cách khách
quan.

Trong phần trích dẫn các sứ điệp, đôi khi vì yêu cầu chính xác của văn bản,
chúng tôi phải dịch lại từ nguyên bản tiếng Anh thay vì lấy từ trang
“sudieptutroi.com” bằng tiếng Việt.

I. GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ PHONG TRÀO “SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI”

1. Người sáng lập phong trào “Sứ điệp từ trời” là ai?

Phong trào “Sứ điệp từ trời” gắn với một cái tên mà hiện nay đã trở thành nổi
tiếng: “Maria Lòng Chúa Thương Xót”[1]. Đây chính là người sáng lập phong trào.
Thoạt đầu, hầu như không ai biết được đích xác Maria Lòng Chúa Thương Xót là
ai. Trên trang mạng chính thức của phong trào, nhân vật này đã tự giới thiệu
mình là một phụ nữ Châu Âu, theo đạo Công Giáo, đã có gia đình, và là một doanh
nhân. Theo bà, tên gọi “Maria Lòng Chúa Thương Xót” không phải tên thật, mà chỉ
là một biệt danh. Bà cho biết rằng Chúa Giêsu muốn bà giữ kín danh tánh để bảo
đảm sự an toàn cho gia đình, cũng như để người ta chỉ tập trung vào các sứ điệp
mà thôi. Dầu vậy, cũng có người đã cố tìm hiểu xem bà là ai; và hiện nay người
ta đã xác định được khá chắc chắn rằng bà là một phụ nữ Ái Nhĩ Lan, hiện sống tại
thành phố Dublin. Thậm chí có người còn biết rõ tên tuổi thực của bà.

Theo Maria Lòng Chúa Thương Xót, Chúa Giêsu đã tỏ cho bà biết rằng bà là vị Sứ
Giả thứ bảy, tức vị Thiên Sứ thứ bảy, được phái đến để mặc khải cho thế gian nội
dung của các Ấn trong sách Khải Huyền. Đây là những Ấn mà chỉ mình Con Chiên
Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, mới có quyền mở. Chính Ngài sẽ lần lượt mở các Ấn
đó; và mỗi lần mở Ấn nào thì Ngài đều mặc khải cho bà để bà thông đạt lại cho
người khác. Cũng vì vậy, Đức Giêsu đã xác định với bà rằng bà là vị ngôn sứ của
thời cuối cùng (Sứ điệp ngày 13-07-2012).

Kể từ tháng 11 năm 2010, bà Maria Lòng Chúa Thương Xót đã liên tục nhận được
các sứ điệp từ trời. Các sứ điệp này chủ yếu do Chúa Giêsu tỏ cho biết, nhưng
cũng có khi do Chúa Cha hoặc do Đức Trinh Nữ Maria. Tính đến nay đã có hơn
1.100 sứ điệp khác nhau. Nội dung chính của các sứ điệp xoay quanh việc cảnh
cáo thế giới tội lỗi, kêu gọi ăn năn hối cải, và tiên báo sự gần kề của ngày
Chúa trở lại. Theo bà Maria, các sứ điệp nhằm chuẩn bị cho thế giới sẵn sàng chờ
đón ngày Chúa trở lại, sau khi đã trải qua thời kỳ cảnh cáo và thanh luyện. Cho
đến nay, bà vẫn không ngừng nhận được các sứ điệp mới.

2. Việc quảng bá Phong trào Sứ điệp từ trời

Nhờ vào các phương tiện thông tin đại chúng, cho đến nay phong trào Sứ điệp từ
trời đã được quảng bá rộng rãi trên toàn thế giới. Trang FaceBook “Chúa Giêsu đối
với nhân loại” (Jesus to Mankind) của bà Maria Lòng Chúa Thương Xót đã thu hút
khá nhiều người đọc. Tính đến nay, bà đã nhận được hơn 17.000 ý kiến yêu thích.
Ngoài ra, bà còn lập trang mạng để quảng bá các sứ điệp của mình. Có một nhóm
thiện nguyện viên người Việt đã dịch trang mạng này sang tiếng Việt và cập nhật
liên tục, với tên gọi “sudieptutroi.com”. Các sứ điệp đã công bố còn
được sưu tập lại và xuất bản thành sách. Cho đến nay đã có ba tập sách (I, II
và III) lần lượt được xuất bản với tựa đề “Sách sự thật” (The Book of Truth).

Nhờ trang mạng bằng tiếng Việt nói trên, ngay tại Việt Nam, có khá nhiều người,
thậm chí cả ở vùng quê, đã biết đến phong trào này và thường xuyên theo dõi các
sứ điệp mới trên trang mạng của phong trào. Tại nhiều giáo xứ, bắt đầu xuất hiện
các nhóm cầu nguyện mệnh danh là “Hội cầu nguyện Mân Côi” nhưng thực chất là
các nhóm quảng bá các sứ điệp từ trời. Thậm chí các sứ điệp từ trời còn được phổ
biến trên một số tòa giảng. Hiện tượng này một mặt cho thấy tính chất lôi cuốn
của phong trào mới, nhưng mặt khác cũng đồng thời là một hiện tượng đáng báo động
cho các cơ quan có thẩm quyền trong Hội Thánh.

II. PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM SAI LẠC VỀ ĐẠO LÝ TRONG SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI

Như đã nói trên đây, nội dung chính của sác Sứ điệp từ trời xoay quanh ba chủ đề
chính: cảnh cáo thế giới tội lỗi, kêu gọi ăn năn hối cải, loan báo sự gần kề của
biến cố Chúa tái lâm. Nếu chỉ nhìn thoáng qua thì những nội dung ấy cũng chẳng
có gì là mới lạ và cũng không đi ngược lại với giáo lý chung của Hội Thánh. Tuy
nhiên, nếu tìm hiểu kỹ nội dung cụ thể của các sứ điệp, người ta thấy lộ ra rất
nhiều điểm sai lạc về giáo lý. Điều nguy hiểm ở đây, đó là những điểm sai lạc
này trộn lẫn với những giáo lý chân thực, tạo nên tình trạng “vàng thau lẫn lộn”,
khiến những ai không tinh ý có thể dễ dàng nhiễm phải nọc độc của chúng. Ở đây
chúng tôi chỉ giới hạn trong việc nêu lên những sai lầm tỏ tường và nghiêm trọng
mà thôi. Để dễ nắm bắt vấn đề, chúng tôi phân chia các điểm sai lạc này thành
những đề mục khác nhau tùy theo những khía cạnh liên quan. Tuy nhiên, việc sắp
xếp này cũng chỉ có tính chất tương đối, vì các sai lạc trong khía cạnh này có
thể cũng liên hệ đến khía cạnh khác, do mối liên hệ chặt chẽ của tổng thể các
chân lý đức tin Kitô giáo.

1. Những điểm sai lạc liên quan đến Mặc Khải

a) Lập trường “duy Kinh Thánh”(sola scriptura). Đây là lập trường có nguồn gốc
từ Phái Tin Lành do Luther khởi xướng. Cách chung, lập trường này cho rằng chỉ
duy mình Kinh Thánh mới là quy chuẩn của đức tin. Những gì không trực tiếp bắt
nguồn từ Kinh thánh thì không có giá trị ràng buộc về phương diện đức tin và
luân lý. Lập trường này hiển nhiên cũng chối bỏ giá trị quy phạm của Thánh Truyền
cũng như Quyền Giáo huấn của Hội Thánh. Một lập trường như thế đã được thể hiện
dưới những hình thức khác nhau trong các Sứ điệp từ trời. Chẳng hạn, sứ điệp
ngày 25-12-2010 tuyên bố như sau: “Bất kỳ giáo lý nào không bắt nguồn từ Kinh
Thánh mà lại tự cho là có thẩm quyền công bố chân lý thì đều là dối trá. Đây là
tội chống lại Ta [Chúa Giêsu] và là sự chống báng nặng nề đối với Ta và Chúa
Cha Hằng Hữu của Ta”. Quan điểm này cũng được lặp lại trong sứ điệp ngày
13-09-2011 với những lời như sau: “Đừng bao giờ cho phép mình chấp nhận bất kỳ
sự thật nào khác ngoài những điều có trong Kinh Thánh”.

Hẳn nhiên, một lập trường như thế đi ngược lại với giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo vốn nhìn nhận Thánh Kinh cùng với Thánh Truyền làm nên một kho tàng đức
tin duy nhất. Ngoài ra, đức tin Công Giáo cũng tin nhận Hội Thánh là thầy dạy
chân lý, có thẩm quyền chính thức để giải thích những gì chứa đựng trong kho
tàng Mặc khải được chính Chúa Kitô ủy thác cho Hội Thánh (xc. GLHTCG, số 80;
85).

b) Coi các mặc khải tư ngang hàng với Kinh Thánh. Một sai lầm nghiêm trọng khác
của các Sứ điệp từ trời, đó là coi các mặc khải tư như là có giá trị ngang hàng
với Kinh Thánh. Thực ra, việc thẩm định các sứ điệp của bà Maria có phải là mặc
khải tư hay không, đó là điều còn phải xem xét. Tuy nhiên, xem ra bà Maria đã tự
nhận những sứ điệp của mình là mặc khải tư; và thậm chí bà còn coi “cái gọi là
mặc khải tư” này ngang hàng với Kinh Thánh.

Thật vậy, trong một số sứ điệp được bà Maria phổ biến, người ta đọc thấy rằng
Chúa Giêsu đã truyền cho bà viết một cuốn sách; cuốn sách này thực ra không phải
do bà viết, nhưng là do chính Chúa viết. Cuốn sách đó có giá trị ngang với Kinh
Thánh và là một phần của Kinh Thánh. Lời khẳng định này được lặp lại nhiều lần
trong các sứ điệp khác nhau với những lời lẽ hơn kém. Chẳng hạn sứ điệp ngày
12-11-2010 nói như sau: “Con phải dồn hết tâm lực để viết cuốn sách. Cuốn sách
này sẽ giúp cải biến cuộc đời nhiều người, sẽ cứu rỗi các linh hồn; và đây là
điều đã được báo trước. Đúng vậy, cuốn sách là điều đã được tiên báo. Con là
người viết. Ta là Tác giả. Con đừng ngạc nhiên hoặc choáng ngợp, vì đây là một
trách vụ thiêng thánh, và con đã được chọn để làm việc này cùng với Ta. Con sẽ
phải mất ba tháng để hoàn tất. Ta muốn con xuất bản cuốn sách trên toàn thế giới.
Cuốn sách đó phải được phổ biến rộng khắp, đầy sức mạnh, và được hằng triệu người
tìm đọc cũng như sách Kinh Thánh vậy. Này con gái của Ta, con có thể xuất bản
cuốn sách dưới danh nghĩa ‘cuộc đối thoại với vị ngôn sứ bí mật’. Con cứ việc
làm như thế” (có thể xem thêm sứ điệp ngày 09-02-2013).

Người viết ra sứ điệp trên đây hẳn đã hiểu không đúng về bản chất của Kinh
Thánh cũng như vị thế của mặc khải tư. Kinh Thánh là chính Lời Thiên Chúa được
mặc khải cho con người và được ghi lại dưới tác động linh hứng của Thánh Thần.
Do vậy, chính Thiên Chúa là tác giả thực sự của Kinh Thánh. Về phần bà Maria,
việc bà tuyên bố cuốn sách bà sẽ viết có Thiên Chúa là tác giả thì cũng đồng
nghĩa với việc cho rằng cuốn sách đó được viết ra với ơn linh hứng chẳng khác
gì Kinh Thánh vậy. Đây quả là một sự mạo nhận có tính chất phạm thượng.

Theo giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, mặc khải công đã nên hoàn trọn cách viên
mãn cùng với sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô. Kể từ đây, nhân loại không còn phải
trông đợi mặc khải nào khác. Bởi đó, những gì liên quan đến đức tin được Thiên
Chúa tỏ bày sau này cho các thánh hay một ai đó thì được gọi là mặc khải tư.
Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo xác định như sau: “Theo dòng lịch sử, đã
xuất hiện những điều gọi là ‘mặc khải tư’, một số trong đó được thẩm quyền của
Hội Thánh công nhận. Tuy vậy, những mặc khải đó không thuộc kho tàng đức tin.
Chức năng của chúng không phải là “cải thiện” hoặc “bổ sung” mặc khải vĩnh viễn
của Đức Kitô, nhưng để giúp người ta, vào một thời điểm lịch sử nào đó, sống mặc
khải của Đức Kitô cách trọn vẹn hơn” (số 67).

2. Những sai lầm liên quan đến Đức Kitô 

a) Sai lầm về mục đích của việc nhập thể. Sứ điệp ngày 24-12-2010 đã bộc lộ một
quan niệm sai lạc về mục đích của việc Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Bằng
một lối diễn tả mơ hồ, sứ điệp này cho rằng việc Con Thiên Chúa nhập thể làm
người và cuối cùng chịu chết trên thập giá chỉ nhằm khai lòng mở trí, hay thức
tỉnh lương tâm của con người để họ nhận biết ơn cứu độ mà Chúa Cha từ ngàn xưa
đã hứa ban cho toàn thể nhân loại. Như vậy, việc nhập thể và cái chết của Đức
Giêsu chỉ có giá trị giáo huấn và gương mẫu chứ không đem lại hiệu quả là ân sủng
tha tội và tái sinh con người vào đời sống mới. Đây quả là một cái nhìn thiếu
sót về công trình cứu độ của Đức Giêsu. Có thể trưng ra đây những lời tiêu biểu
trong sứ điệp này như sau: “Việc Ta đến trần gian đã được sắp đặt như một cơ hội
cuối cùng để thức tỉnh thế gian, ngõ hầu mọi người nhận ra rằng Thiên Chúa tha
thứ mọi tội lỗi. Vai trò của Ta là để chỉ cho các con con đường lên Trời, nhờ
vào giáo huấn và cái chết của Ta trên thập giá”.

b) Quan niệm sai lạc về cuộc Quang lâm của Chúa. Các sứ điệp của bà Maria còn
quảng bá một quan niệm hết sức sai lạc về biến cố Quang lâm của Chúa. Các sứ điệp
này cho rằng sau khi thời kỳ cảnh cáo và thanh luyện kết thúc thì sẽ là thời
Chúa Kitô tái xuất hiện trên địa cầu. Tuy nhiên, cuộc tái lâm này chưa phải
đánh dấu thời cùng tận của thế giới để rồi khai mào cảnh “Trời mới đất mới” kéo
dài đến thiên thu vạn đại. Trái lại, theo sứ điệp của bà Maria, thời kỳ khai
mào cùng với cuộc Quang lâm của Chúa cũng chỉ kéo dài 1.000 năm. Đó là thời kỳ
mà Chúa Kitô cai quản địa cầu, và quyền lực Satan bị bứng tận gốc khỏi trần
gian. Đây chính là sự mô phỏng lại lạc thuyết “ngàn năm” vốn đã bị Hội Thánh
phi bác từ xưa. Thuyết “ngàn năm” này được thể hiện rõ ràng trong sứ điệp ngày
20-05-2011, trong đó có những đoạn như sau:

“Nhiều bối rối tồn tại trên thế giới liên quan đến biến cố này. Nhiều người tin
rằng Cuộc Quang Lâm của Ta chỉ ra rằng thời tận cùng của thế giới đã đến. Nhưng
không phải như vậy, thay vào đó Cuộc Quang Lâm của Ta có nghĩa nói về thời kỳ
cuối khi Satan và thuộc hạ của hắn, những kẻ đã tạo ra những đau khổ không kể
xiết trên thế giới, sẽ bị trục xuất khỏi Trái Đất trong vòng 1.000 năm.

Con gái của Ta, Ta sẽ cai trị trái đất trong 1.000 năm. Hãy biết chắc rằng giờ
đây Ta đang trông coi các biến cố khi chúng xảy ra trên thế giới. Giờ đây Ta đã
chuẩn bị đường lối cho Vương Quốc Mới của Ta trên trái đất và thời gian đó đã gần
đến rồi, gần hơn rất nhiều so với những gì người ta có thể nhận ra. Hãy hân
hoan vì tin tức này sẽ được tất cả mọi người đón nhận. Đau khổ trên thế giới
này sẽ chấm dứt. Một nguồn tình yêu và vinh quang để sẻ chia cho tất cả con cái
của Ta, sẽ trào dâng”.

Cần lưu ý rằng thuyết “ngàn năm” này từng bị các vị thánh tiến sĩ thời danh như
Augustinô, Tôma Aquinô lên tiếng phi bác. Huấn quyền của Hội Thánh cũng minh
nhiên kết án lạc thuyết này, như thấy trong Sách Giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo: “Sự đánh lừa của tên Phản Kitô đã được phác họa trên trần gian mỗi khi
người ta cho rằng mình thực hiện được trong lịch sử niềm hy vọng về Đấng
Mêssia, một niềm hy vọng vốn chỉ có thể được hoàn thành vượt quá giới hạn lịch
sử, nhờ cuộc phán xét cánh chung: Hội Thánh đã bác bỏ sự giả mạo này về Vương
quốc tương lai, và cả dưới một hình thức giảm nhẹ của sự giả mạo đó, có tên là
thuyết ngàn năm, nhất là dưới một hình thức chính trị của một chủ thuyết Mêssia
đã bị tục hóa ‘đồi bại tự bản chất’” (số 676).

3. Những điểm sai lạc liên quan đến Hội Thánh

a) Chối bỏ quyền giáo huấn của Hội Thánh. Bằng những cách khác nhau, bà Maria
đã chối bỏ thẩm quyền bất khả ngộ của Hội Thánh xét như thầy dạy chân lý. Như
chúng tôi đã phân tích trên đây, qua lập trường “duy Kinh Thánh”, bà Maria cũng
đồng thời hoặc ít nhất là gián tiếp phủ nhận quyền giáo huấn của Hội Thánh. Sự
phủ nhận quyền giáo huấn có tính quy phạm của Hội Thánh dường như còn được diễn
tả cách mặc nhiên qua việc bà chủ trương theo kiểu cào bằng rằng “…không một ai
trong các con xứng đáng để phán xét hoặc tra xét về người khác. Không ai có quyền
hạn hoặc hiểu biết thiêng liêng để đưa ra bất cứ sự đánh giá nào về đạo đức nơi
người khác” (Sứ điệp ngày 06-04-2011).

Mặt khác, bà Maria còn đưa ra những lời nhận định sai lạc hoặc những lời cáo buộc
thiếu căn cứ về cách thức Hội Thánh thực thi vai trò giáo huấn. Trong nhiều sứ
điệp và cụ thể là sứ điệp ngày 26-01-2012, bà Maria xem ra muốn ám chỉ rằng Tòa
Thánh đang bị một số phần tử xấu lũng đoạn, cho nên những gì mà các cơ quan thẩm
quyền của Tòa Thánh giảng dạy chỉ là bóp méo sự thật về giáo huấn của Chúa; những
canh tân Phụng vụ, nhất là nghi thức thánh lễ chỉ là phương pháp phượng tự Công
Giáo bất xứng, xúc phạm đến Chúa Giêsu và Chúa Cha. Cũng trong sứ điệp này, bà
còn cho rằng Hội Thánh không dạy sự thật; Hội Thánh đã không bao giờ giảng dạy
về tính chất nghiêm trọng của tội lỗi (xem thêm các sứ điệp ngày 18-02-2013;
ngày 30-09-2013). Thực ra, bà Maria nói như thế tức là bà đã không hiểu rằng Hội
Thánh không chỉ là cơ chế hữu hình được vận hành bởi con người, mà trên hết còn
là một thực tại thiêng thánh được Thánh Thần hướng dẫn.

b) Chối bỏ quyền của Hội Thánh trong việc quản lý và phân phát các mầu nhiệm
thánh. Thật vậy, sứ điệp ngày 31-01-2012 đã cho thấy một quan niệm sai lạc về
việc ban các ân xá. Theo sứ điệp này, việc ban ân toàn xá không phải do Hội
Thánh mà là do chính Chúa Giêsu ban cho một số người được tuyển chọn để kêu gọi
người khác hoán cải. Việc nhận ơn toàn xá này đi kèm với điều kiện phải đọc một
kinh đặc biệt trong bảy ngày liền. Kinh này cũng được xác định rõ trong sứ điệp.
Thực ra, những điều nói trong sứ điệp này thực chất chỉ là một sự mạo danh Chúa
Giêsu để tự dành cho mình quyền ban ân xá, chứ Chúa Giêsu chẳng bao giờ làm điều
đó.

Thật vậy, những điều trong sứ điệp này hoàn toàn trái ngược với ý định của Chúa
Giêsu trong việc thiết lập Hội Thánh như là trung gian của ơn thánh (Mt 16,19;
18,18). Chúa Giêsu không ủy thác cho một thẩm quyền nào khác ngoài Hội Thánh được
ban các ân xá cũng như quy định các điều kiện đi kèm. Chắc hẳn Chúa Giêsu sẽ
không phá đổ hay làm ngược lại những gì Ngài đã thiết lập. Về điểm này, Sách
Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo dạy như sau: “Ân xá là việc tha thứ trước mặt Thiên
Chúa khỏi những hình phạt tạm đáng chịu vì những tội lỗi đã phạm, dù những tội
đó đã được tha thứ. Để hưởng nhờ ân xá, Kitô hữu phải hội đủ những điều kiện được
thẩm quyền của Hội Thánh quy định, vì với tư cách là thừa tác viên của Ơn cứu
chuộc, Hội Thánh có thẩm quyền phân phát và chia sẻ kho tàng công phúc của Đức
Kitô và các thánh” (số 1471).

c) Đưa ra những phán đoán sai lạc về các Đấng kế vị Thánh Phêrô. Trước khi xảy
ra biến cố Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI tuyên bố từ nhiệm, bà Maria, trong nhiều
sứ điệp, đã từng tiên báo rằng Đức Giáo hoàng sẽ bị hạ bệ bởi một âm mưu đen tối
trong Giáo triều Rôma (chẳng hạn các sứ điệp ngày 18-01-2012; ngày 11-02-2012;
ngày 20-03-2012; ngày 26-05-2012). Nếu các sứ điệp trên đây tiên báo việc Đức
Giáo hoàng Bênêđictô XVI kết thúc sứ vụ đại diện Chúa Kitô là do một thế lực xấu
xa cưỡng ép ngài, thì chúng ta sẽ phải hiểu sao về những lời tuyên bố của ngài
về lý do của việc từ nhiệm? Trong tuyên bố ngày 11-02-2013, ngài đã xác định việc
từ nhiệm là do tuổi cao và sức khỏe kém, và việc từ nhiệm là một quyết định tự
do. Như vậy, phải chăng chúng ta phải tin vào các sứ điệp của bà Maria để kết tội
Đức Giáo hoàng là một kẻ dối trá? Hay phải nói ngược lại là các sứ điệp của bà
Maria chỉ là trò dự đoán đầy tà ý và cảm tính?

Bên cạnh đó, bà Maria còn phủ nhận sự chính đáng của việc Đức Giáo Hoàng
Bênêđictô từ nhiệm cũng như tính hợp thức của vị Giáo hoàng sẽ kế vị. Trong sứ
điệp ngày 22-07-2013 có những lời lẽ như sau: “Chỉ có một vị chủ chăn của Giáo
Hội trên Trái Đất được Con Mẹ trao quyền, người vẫn cứ phải là Giáo Hoàng cho đến
chết. Bất cứ ai khác là kẻ giành quyền ngồi trên Ngai Tòa Thánh Phêrô đều là kẻ
mạo danh”.

Đang khi đó, việc các vị Giáo hoàng từ nhiệm, mặc dù hiếm nhưng cũng đã từng xảy
ra trong lịch sử Hội Thánh. Cho nên, đó không phải là điều bất khả. Chính bộ
Giáo luật 1983, điều 332, §2 dự liệu như sau: “Nếu xảy ra trường hợp Đức Giáo
hoàng Rôma từ nhiệm, việc từ nhiệm phải được tự do và phải được bày tỏ cách hợp
thức thì mới hữu hiệu, nhưng không cần được bất cứ ai chấp nhận”.

Có một điều mà ai đọc các sứ điệp của bà Maria cũng đều dễ nhận thấy, đó là sự
chống báng mạnh mẽ nhắm vào người kế vị Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, tức là Đức
Giáo hoàng đương kim Phanxicô. Chiều hướng này xem ra cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến
các nhóm cầu nguyện do bà phát động. Trong nhiều sứ điệp khác nhau, bà đã dùng
những lời lẽ chống báng rất gay gắt đối với Đức Phanxicô.

Từ trước khi xảy ra biến cố Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm, trong sứ điệp
ngày 12-04-2012, bà Maria đã tiên báo một người sẽ được bầu lên thay Đức
Bênêđictô. Tuy nhiên, bà phủ nhận tính hợp pháp của cuộc bầu vị Giáo hoàng mới.
Bà gọi cơ mật viện Hồng y bầu giáo hoàng mới là những người theo bè Tam điểm,
là tổ chức độc ác của Satan. Bà gọi vị Giáo hoàng mới là ngôn sứ giả, là kẻ mạo
danh. Điều này nằm trong cùng một chiều hướng với việc bà cho rằng Đức
Bênêđictô XVI là vị giáo hoàng đích thực cuối cùng trên trần gian. Trong nhiều
sứ điệp khác nữa, bà thường xuyên lặp đi lặp lại cụm từ “ngôn sứ giả” được gán
cho người kế vị Đức Bênêđictô. Cũng có khi bà gán cho vị này những “nhãn hiệu”
xấu xa khác, như “đầu của Con Mãng Xà” (sứ điệp ngày 13-11-2012); “kẻ mạo danh”
(sứ điệp ngày 22-07-2013); “cái sừng nhỏ, kẻ huênh hoang tự đắc ngồi trên Tòa
Phêrô” (sứ điệp ngày 18-02-2013); “con của Satan…kẻ mạo danh trên ngai tòa
Phêrô…tên phản Kitô” (sứ điệp ngày 25-02-2013); và còn nhiều điều khác tương tự.

Thái độ chống Giáo hoàng của bà Maria một mặt cho thấy bà không tin rằng Thánh
Thần của Chúa Kitô vẫn đang hiện diện và hoạt động trong Hội Thánh, không ngừng
hướng dẫn Hội Thánh đạt đến chân lý toàn vẹn của Chúa Kitô. Mặt khác, thái độ
đó còn cho thấy một cái nhìn giản lược về bản chất của Hội Thánh vốn chỉ còn là
một cơ chế phàm trần của những tranh giành phe nhóm, những toan tính kiêu căng,
mưu đồ thống trị… Cần nhớ rằng Hội Thánh tiên vàn là một mầu nhiệm. Hội Thánh
dù bao gồm các tội nhân, nhưng tự bản chất là thánh thiện vì được chính Đức
Kitô thánh hóa để trở thành Hiền Thê không tì ố của Ngài (xc. Cđ. Vat. II, Hiến
chế về Giáo Hội, số 1-8). Thái độ chống Giáo hoàng của bà Maria có thể coi là một
dạng thức của tội ly giáo, khi bà không ngừng rêu rao rằng vị Giáo hoàng đương
nhiệm là ngôn sứ giả, là Giáo hoàng mạo danh… (xc. GLHTCG, số 2089).

4. Những điểm sai lầm về luân lý

a) Sai lầm trong quan niệm về luân lý tính dục. Trong sứ điệp ngày 06-04-2011,
bà Maria tỏ ra dung túng cho một lối sống tự do về tình dục. Nội dung chính của
sứ điệp này xoay quanh việc đừng lên án những người khác tôn giáo, tín ngưỡng
hay khác về những sở thích tính dục (sexual preferences). Hẳn nhiên, cần phân
biệt giữa tội lỗi và con người. Chúng ta không có quyền lên án các tội nhân,
cho dù họ phạm những tội nặng nề nhất. Thế nhưng, cách diễn tả mơ hồ của sứ điệp
khiến người đọc có cảm tưởng rằng cũng không nên phê phán sự sai trái của những
xu hướng lệch lạc về tính dục. Điều đáng nói ở đây là cụm từ “sở thích về tính
dục” được lặp đi lặp lại nhiều lần như một sự nhấn mạnh. Cách dùng cụm từ này
thật đáng ngờ! Xem ra nó hàm ý rằng những xu hướng tính dục như đồng tính chẳng
hạn, cũng chỉ nên coi là chuyện sở thích cá nhân chứ không phải là một sự lệch
lạc về luân lý. Thế nhưng, đây lại là điều đi ngược lại với Giáo lý của Hội
Thánh vốn coi các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là vô trật tự, và nghịch
với luật tự nhiên (xc. GLHTCG, số 2357).

b) Quan niệm sai lạc về việc áp dụng án tử hình. Bà Maria còn đưa ra một quan
niệm sai lạc về việc áp dụng án tử hình khi bà lên án theo cách cào bằng vô điều
kiện mọi hình thức giết người, chỉ trừ ra hành động tự vệ. Sứ điệp ngày
26-01-2012 có những lời như sau: “Ngươi không được giết người có nghĩa là ngươi
không được giết người khác. Điều này không có ý nói về sự tự vệ nhưng về bất kỳ
trường hợp nào khác. Không ai được biện minh cho việc giết người – dù là phá
thai, hành hình hay trợ tử. Không người nào được phép” (sứ điệp ngày 15-07-2011
cũng có những lời tương tự).

Hẳn nhiên, Hội Thánh luôn dạy rằng phá thai, trợ tử và những hành động giết người
cố ý và không có lý do chính đáng đều là những tội ác nghiêm trọng về luân lý.
Tuy nhiên, đối với án tử hình, mặc dù Hội Thánh luôn kêu gọi các chính quyền thực
thi lòng khoan dung và giảm thiểu hết mức có thể việc áp dụng án tử hình, nhưng
Hội Thánh vẫn luôn công nhận quyền chính đáng của các chính quyền dân sự trong
việc áp dụng án tử hình cho những tội phạm hết sức nguy hiểm cho xã hội mà xét
thấy không còn cách chọn lựa nào khác. Như vậy, việc áp dụng án tử hình không
phải luôn luôn là hành động vô luân, nhưng là điều chính đáng trong một số hoàn
cảnh nhất định. Giáo lý này thuộc về truyền thống lâu đời của Hội Thánh, từng
được các vị thánh Tiến sĩ thời danh giảng dạy, và nhất là được khẳng định trong
Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo như sau: “Giáo huấn truyền thống của Hội
Thánh, sau khi đã xác minh đầy đủ căn tính và trách nhiệm của phạm nhân, không
loại trừ việc kết án tử hình, nếu đây là con đường khả thi duy nhất để bảo vệ hữu
hiệu mạng sống con người khỏi bị xâm phạm cách bất công” (số 2267).

c) Quan niệm sai lạc về ơn tha tội. Trong sứ điệp ngày 09-07-2012, bà Maria còn
quảng bá một quan niệm sai lạc về ơn tha tội khi cho rằng người nào đọc kinh đọc
đặc biệt (do bà chỉ dẫn) trong 7 ngày liên tục thì được ơn xá giải mọi tội lỗi.
Điều này hẳn nhiên đi ngược với giáo lý của Hội Thánh vốn cho rằng ơn tha tội
được ban thông thường bằng việc lãnh nhận bí tích giao hòa, hoặc trong trường hợp
khẩn cấp, bằng việc ăn năn tội cách trọn, chứ không chỉ đơn thuần bằng việc đọc
bất kỳ kinh đọc nào (xc. GLHTCG, số 1446; 1452).

Cũng trong sứ điệp nói trên, bà còn đề xuất một kinh đọc đặc biệt khác để xin
ơn tha tội cho những người chết trong tình trạng mắc tội trọng. Điều này rõ
ràng đi ngược lại với giáo lý của Hội Thánh vốn dạy rằng những ai chết trong
tình trạng mắc tội trọng thì sẽ rơi vào sự hư mất đời đời. Do vậy, tất cả những
sự hy sinh, công phúc, lời cầu nguyện của người sống cũng không làm thay đổi được
phần số của những người đã chết ấy (xc. GLHTCG, số 1035).

5. Những điểm sai lạc về kỷ luật bí tích 

Trong các sứ điệp, bà Maria còn chủ trương những điều sai lạc liên quan đến
cách thức thực hành hoặc lãnh nhận các bí tích. Hẳn nhiên, Hội Thánh không có
quyền thay đổi bản chất của các bí tích, vì các bí tích là do Chúa Kitô thiết lập.
Tuy nhiên, Hội Thánh, xét như là người quản lý các Bí Tích và thừa tác viên của
ơn cứu độ, có thẩm quyền đưa ra những quy định về hình thức cử hành các bí
tích. Những quy định này vì không đụng chạm đến bản chất của Bí tích, nên có thể
được canh tân khi cần thiết để thích ứng với những hoàn cảnh mới.

Ở đây, chúng tôi muốn nói đến hai quy định cụ thể của Hội Thánh trong việc lãnh
nhận các bí tích. Đó là việc cho phép tín hữu rước lễ bằng tay và luật buộc
xưng các tội trọng một năm ít là một lần. Việc Hội Thánh cho phép tín hữu rước
lễ bằng tay được xác định rõ ràng trong các văn kiện sau đây: Tông thư Ecclesia
de Eucharistia của Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Huấn thị
Redemptionis Sacramentum của Bộ Phụng tự và Bí tích. Còn việc xưng các tội trọng
một năm ít là một lần thì được xác định trong Giáo luật 1983, điều 989.

Đáng tiếc là các sứ điệp của bà Maria đã minh nhiên phủ nhận tính hợp pháp của
hai quy định trên đây của Hội Thánh. Thật vậy, sứ điệp ngày 06-07-2011 nói như
sau: “Bí Tích Thánh Thể Chí Thánh phải được đón nhận trên lưỡi và không được
phép đón nhận một cách ô nhơ bởi bàn tay con người. Tuy nhiên, điều này chính
là những gì các tôi tớ đã được thánh hiến của Ta đã và đang thực hiện. Các lề
luật này đã không được thông qua bởi Ta trong thần khí. Các tôi tớ đã được
thánh hiến của Ta đã bị dẫn dắt trên một con đường không phù hợp với các Giáo
Huấn từ các tông đồ của Ta”.

Còn sứ điệp ngày 09-07-2012 lại khẳng định rằng: “Đối với những người Công
Giáo, các con phải lãnh nhận bí tích Hòa Giải hai tuần một lần nếu các con muốn
tiếp tục sống trong Ân sủng”. Đây vừa là một quan niệm sai lạc về tình trạng ân
sủng vì cho rằng tình trạng ân sủng không tùy thuộc vào tình trạng sạch tội trọng
và lòng mến Chúa, nhưng tùy thuộc vào nhịp độ nhất định của việc thực hành bí
tích. Mặt khác, nó còn chuẩn hóa một lối thực hành bí tích trái với quy định
chung của Hội Thánh.

III. THẨM ĐỊNH VỀ PHONG TRÀO SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI

1. Phản ứng từ phía Giáo quyền

Kể từ khi phong trào “Sứ điệp từ trời” khai sinh và được phổ biến rộng rãi, nhiều
vị Giám mục thuộc các châu lục khác nhau đã lên tiếng cảnh báo về sự nguy hiểm
cũng như sự lầm lạc của phong trào này. Có thể kể ra một số vị tiêu biểu như:

Đức Tổng Giám mục Denis J Hart, Giáo phận Melbourne, Úc;

Đức Giám mục Fabbro, Giáo phận London, Ontario, Canada;

Đức Giám mục Stephen Secka, Giám mục phụ tá Giáo phận Spisska, Slovakia;

Đức Giám mục Richard. J. Malone, Tổng Giáo phận Buffalo, NY;

Đức Tổng Giám mục Mark Coleridge, Giáo phận Brisbane, Úc;

Đức Giám mục Greg O’Kelly SJ , Giáo phận Port Pirie, Nam Úc;

Đức Giám mục Andreas Laun of Salzburg, Giám mục Phụ tá Giáo phận Áo.[2]

Vì bà “Maria Lòng Chúa Thương Xót” được cho là người đang sống tại Dublin, nên
cuối cùng Đức Tổng Giám mục Tổng Giáo Phận Dublin, tức vị chủ chăn có thẩm quyền
trực tiếp đối với bà, cuối cùng cũng đã lên tiếng. Mới đây trong một bản Tuyên
cáo ra ngày 16-04-2014, Đức Tổng Giám mục Diarmuid Martin tuyên bố như sau:

Tòa Tổng Giám mục Dublin đã nhận được nhiều thỉnh nguyện thư xin xác minh về
tính chân thực của những điều tự nhận là thị kiến và sứ điệp do một người tự
xưng là “Maria Lòng Chúa Thương Xót” nhận được, và người này được cho là đang sống
tại Tổng Giáo phận Dublin.

Nay Tổng Giám mục Diarmuid Martin muốn khẳng định rằng các sứ điệp này cũng như
các thị kiến đi kèm không được Hội Thánh chuẩn nhận, và nhiều điều trong các bản
văn đi ngược lại với thần học Công Giáo.

Vậy, không được phổ biến hay sử dụng các sứ điệp này trong các hội đoàn thuộc Hội
Thánh Công Giáo.[3]

2. Một vài nhận định chung thay lời kết

Sau khi đã tìm hiểu phong trào “Sứ điệp từ trời”, chúng tôi nhận thấy rằng các
bản văn tự nhận là “sứ điệp từ trời” không thực sự phản ảnh giáo lý tinh tuyền
của Hội Thánh Công Giáo, nhưng chỉ là một thứ giáo thuyết hỗn tạp được góp nhặt
hoặc chịu ảnh hưởng từ những nguồn mạch khác nhau, vừa là Công Giáo, Tin Lành,
và cả khuynh hướng hành đạo theo nghi lễ cổ điển trước Công đồng Vaticanô II. Mặt
khác, các sứ điệp của bà Maria còn chứa đựng rất nhiều điều bất nhất hoặc mâu
thuẫn. Chẳng hạn, khi thì bà chủ trương phải khoan dung với những người “khác về
sở thích tính dục”, khi khác lại lên án cách gay gắt những cuộc hôn nhân đồng
tính; khi thì bà chủ trương phải cầu nguyện cho những người đã chết trong tình
trạng mắc tội trọng, khi khác bà lại cho rằng hình phạt hỏa ngục là đời đời,
không thay đổi được (sứ điệp ngày 12-01-2014). Trong các sứ điệp, bà Maria đã từng
cảnh báo về một “thứ tôn giáo mới phá hoại Hội Thánh”, do một số phần tử xấu
trong Giáo triều đang tìm cách gầy dựng (chẳng hạn sứ điệp ngày 20-07-2012). Phải
chăng lời kết án ấy trước tiên đã ứng nghiệm vào chính cái giáo thuyết hỗn tạp
mà bà đang ra sức phổ biến?

Có nhiều yếu tố khiến người ta nghi ngờ về tính khả tín của các sứ điệp từ trời
do bà Maria phổ biến. Trước hết là sự ẩn danh của bà. Mặc dù sự ẩn danh này đã
được bà giải thích lý do, nhưng xem ra lý do bà đưa ra không thực sự thuyết phục.
Trong phần lớn các trường hợp, sự ẩn danh thường đi đôi với việc không dám nhận
trách nhiệm cũng như những hệ lụy về những gì mình nói hoặc làm. Một lá thư nặc
danh thường không được coi là có giá trị. Trong lịch sử Hội Thánh, những nhà thần
bí, những người nhận mặc khải tư chân chính không bao giờ ẩn danh, mà trái lại,
họ sẵn lòng chịu thử thách, hiểu lầm, nghi kỵ, thiệt thòi vì những gì họ nói
ra, bởi vì họ thực sự xác tín về những gì mình nói.

Yếu tố thứ hai khiến người ta nghi ngờ về tính khả tín của các sứ điệp, đó là
những lời tiên báo của bà Maria thường không ứng nghiệm. Cũng có khi những lời
tiên báo đó xem ra ứng nghiệm, nhưng chỉ ứng nghiệm cách nửa vời, như trong trường
hợp bà tiên báo về việc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm mà chúng tôi đã
phân tích trên đây. Còn những gì bà tiên báo về người kế vị Đức Bênêđictô XVI
thì hoàn toàn ngược lại với những gì người ta đang chứng kiến nơi vị Giáo hoàng
đương kim, Đức Phanxicô. Nếu quả thực các sứ điệp của bà phát xuất từ Thiên
Chúa thì hẳn là không thể tiên báo những điều viển vông như vậy.

Yếu tố sau cùng khiến người ta có đủ cơ sở để phủ nhận tính khả tín của các sứ
điệp do bà Maria quảng bá, đó là những điểm sai lầm nghiêm trọng về đạo lý chất
chứa trong các sứ điệp của bà. Thông thường Hội Thánh rất cẩn trọng trong việc
xác định những mặc khải tư nào được coi là chân thực; và một trong những tiêu
chí quan trọng hàng đầu được dựa vào để thẩm định, đó là mặc khải tư ấy không
bao hàm những điều sai lạc đi ngược lại với giáo lý chung của Hội Thánh. Chỉ
nguyên tiêu chí này cũng đủ cho thấy những sứ điệp tự nhận là “từ trời” hay “mặc
khải tư” của bà Maria chỉ là ngụy tạo. Những sứ điệp đó không đến từ Thiên
Chúa, mà chỉ là sản phẩm của con người. Điều tai hại là chính người tạo ra các
sứ điệp ấy lại gán cho chúng một giá trị ràng buộc gần như tuyệt đối mà tự thân
chúng không có. Điều này đã gây hoang mang cho không ít các tín hữu đơn thành:
có buộc phải tin các “sứ điệp từ trời” hay không? Nếu không tin sẽ phải chuốc lấy
những tai họa hay những hình phạt khủng khiếp sẵn sàng ập xuống. Còn nếu tin
thì sẽ kéo theo bao nhiêu hệ lụy thực hành do các sứ điệp đề xướng; và rồi, liệu
làm như thế có rơi vào tội rối đạo hay không? Bằng ấy câu hỏi đặt ra cũng là lời
thỉnh nguyện để các cơ quan thẩm quyền trong Hội Thánh địa phương sớm đưa ra
câu trả lời chính thức để soi sáng cho các tín hữu có được sự lựa chọn đúng đắn
trong vấn đề này.

Nguồn: daminhvn.net

­­­­___________

[1] Tên tiếng Anh là “Maria Divine Mercy”. Trong trang mạng
“sudieptutroi.com”, tên này được dịch sang tiếng Việt là “Maria Tông
Đồ Lòng Chúa Xót Thương”.

[2] Có thể tham khảo thêm ở trang “sudieptutroi-trueorfalse.blogspot.com”

[3] Nguyên bản tiếng Anh trong trang mạng chính thức của Tổng Giáo phận Dublin.